Tuesday, 12 November 2013

Nhân quyền ở Việt Nam?

Nhân quyền ở Việt Nam
Việt Nam trong mắt đại đa số trên thế giới là một đất nước tươi đẹp với nhiều danh lam thắng cảnh và con người thân thiện cùng với nền kinh tế đang trên đà phát triển. Thế nhưng đàng sau những gì mà mọi người nhìn thấy thì lại còn đầy rẫy bất công, không có nhân quyền.
Thế nhưng Việt Nam lại muốn tham gia một chân vào ủy ban nhân quyền Liên Hiệp Quốc. Với tình hình đất nước hiện đầy rẫy những án oan, những bản án bỏ túi với các tù nhân chính trị và sự đàn áp về tôn giáo, từ Công Giáo, Tin Lành, Phật Giáo Hòa Hảo cũng như Phật Giáo. Vậy Việt Nam muốn tham gia vào ủy ban nhân quyền Liên Hiệp Quốc để làm gì? Phải chăng đó chỉ là một chiêu bài để xoa dịu đi sự lên tiếng của thế giới về tình trạng nhân quyền ở Việt Nam và là môt tấm bình phong cho đảng CS. Khi mà đảng đang dần đánh mất niềm tin của người dân. Vào ủy ban nhân quyền chỉ là : "Việt Nam sẽ có những toan tính của họ để làm sao quyền lực, hình ảnh, vị thế chính trị của họ được thuận lợi hơn trong bối cảnh quan hệ quốc tế, cũng như trong quan hệ đối nội của chính quyền" - theo như bác sĩ Phạm Hồng Sơn nói.
Tôi cũng như mọi người trên thế giới này đều mong muốn Việt Nam có những tiến về nhân quyền, dân chủ để mỗi một con người đều có đầy đủ quyền công dân của mình.

Sunday, 10 November 2013

Ân xá Quốc Tế: Hàng chục nhân vật bất đồng vẫn bị giam cầm vì đã lên tiếng

Ân xá Quốc Tế: Hàng chục nhân vật bất đồng vẫn bị giam cầm vì đã lên tiếng

Hội Ân xá Quốc Tế nói chính quyền Việt Nam phải chấm dứt chiến dịch đàn áp giới bất đồng, và lập tức thiết lập những biện pháp để bảo vệ giới hoạt động chống những hành vi sách nhiễu và bỏ tù, chỉ vì đã hành xử các quyền căn bản của mình.Phúc trình của Hội Ân xá Quốc Tế cho biết từ đầu năm 2012 tới nay, có ít nhất 65 nhà bất đồng chính kiến ôn hòa bị kết án tù trong khoảng 20 vụ xét xử không đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Phúc trình của Hội Ân xá Quốc Tế cho biết từ đầu năm 2012 tới nay, có ít nhất 65 nhà bất đồng chính kiến ôn hòa bị kết án tù trong khoảng 20 vụ xét xử không đạt tiêu chuẩn quốc tế.

Đó là nhận định đưa ra trong một phúc trình mang tên “Những tiếng nói bị dập tắt: các tù nhân lương tâm tại Việt Nam” vừa được công bố hôm nay.

Ông Rupert Abbott, một nhà nghiên cứu về Việt Nam của Hội Ân xá Quốc Tế, nhận định “Việt Nam đang nhanh chóng trở thành một trong những nhà tù lớn nhất đối với giới bảo vệ nhân quyền và các nhà hoạt động khác.”

Ông Abbott nói trong năm 2013, Việt Nam đã đưa vấn đề sửa đổi Hiến Pháp ra tranh luận và đồng thời, vận động để chiếm một ghế tại Hội Đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc.

Việt Nam đang nhanh chóng trở thành một trong những nhà tù lớn nhất đối với giới bảo vệ nhân quyền và các nhà hoạt động khác.
Trong bối cảnh đó, Hà Nội đã tuyên bố với thế giới rằng Việt Nam tôn trọng nền pháp quyền, tuy nhiên hành động đàn áp những tiếng nói bất đồng trên thực tế, đã vi phạm những cam kết của Việt Nam với quốc tế là sẽ tôn trọng quyền tự do ngôn luận.

Hội Ân xá Quốc Tế nói trong nhiều năm qua, chính quyền Việt Nam đã bắt bớ, truy tố, giam cầm và bỏ tù hàng trăm tiếng nói bất đồng, trong đó có các blogger, những nhà hoạt động bênh vực quyền người lao động, quyền sở hữu đất đai, giới bảo vệ nhân quyền và kêu gọi cải cách dân chủ ôn hòa.

Một số thành viên của các tổ chức tôn giáo cũng là mục tiêu bị đàn áp.

Phúc trình của Hội Ân xá Quốc Tế nói từ đầu năm 2012 tới nay, có ít nhất 65 nhà bất đồng ôn hòa bị kết án tù dài ngày trong khoảng 20 vụ xét xử không đạt tiêu chuẩn quốc tế.

Hội Ân xá Quốc Tế nói một khi bị tống giam, các tù nhân lương tâm phải đương đầu với các điều kiện vô cùng khắc nghiệt, đôi khi bị cách ly, hoàn toàn cô lập với các tù nhân khác, trong khi một số bị tra tấn và phải chịu những hình thức ngược đãi tàn bạo khác.

Phúc trình của Hội Ân xá Quốc Tế đặc biệt đề cập tới trường hợp cô Đỗ Thị Minh Hạnh, 28 tuổi, một nhà hoạt động trẻ đấu tranh cho quyền lợi công nhân đã bị tuyên án 7 năm tù hồi năm 2010 vì đã phát những tờ rơi để ủng hộ công nhân đòi tăng lương và cải thiện các điều kiện làm việc.

Cô Ðỗ Thị Minh Hạnh đã bị ngược đãi trong nhà tù, kể cả bị các tù nhân khác đánh đập, trong khi cai tù ngoảnh mặt làm ngơ.

Một số nhân vật khác được đề cập tới gồm có blogger Điếu Cày, đang thọ án tù 12 năm về tội tuyên truyền chống nhà nước, và luật sư Lê Quốc Quân, đang bị cầm tù 30 tháng về các cáo trạng trốn thuế, bị chỉ trích là mang động cơ chính trị.

Hội Ân xá Quốc Tế kêu gọi Việt Nam hãy lập tức trả tự do cho tất cả các tù nhân lương tâm.

Nguồn: Amnesty International, AFP

Dân Oan

Hôm nay khi đọc lại những bài báo về những người dân oan ở khắp mọi miền đất nước Việt Nam mình tập trung ở một nơi mà mọi người gọi là " TRẠI DÂN OAN". Tôi thật sự rất đau lòng khi nhìn cảnh đất nước khắp nơi đâu cũng là dân oan.
 Lý do dân oan là do đâu?
Nếu một đất nước dân chủ và công bình thì đâu còn tồn tại dân oan. Một thực trạng mà từ lúc CS ra đời cho đến nay không những không thay đổi mà ngày càng mở rộng hơn đó là dân oan. Lúc trước thì là vụ dân oan trong cải cách ruộng đất, rồi bây giờ là dân oan cũng trong đất đai và tín ngưỡng. Ôi những mảnh đời oan trái rồi sẽ đi đâu, về đâu khi CS còn cầm quyền. XHCN ư? Dân chủ văn minh ư? Tôi tự hỏi những người cầm quyền Việt Nam luôn nêu cao những khẩu hiệu đó có hiểu rõ và trả lời được câu khẩu hiệu "cửa miệng" của họ không? Chắc chắn là KHÔNG. Bởi vì nếu họ hiểu và trả lời được thì họ đã thay đổi cách "cai trị" nhân dân mình rồi.
Đất đai ở Việt Nam - một nước đông dân trên thế giới và với tỉ lệ tăng dân số là cao trên thế giới (). Thì CS sẽ làm tất cả để chiếm hữu cái mà người ta gọi là "đất đai là quyền sở hữu của toàn dân".
Đấy là vấn đề đất đai - vấn đề muôn thuở từ trước đến nay. Còn về quyền tự do tín ngưỡng thì như thế nào? Xin trả lời là cũng không có tự do như CS rêu rao đâu ạ. Chị Ma Thị Hường - dân oan mới đây từ Cao Bằng cho biết :“Em đòi hỏi quyền tự do tín ngưỡng thờ Đức Chúa Trời nhưng bọn em không có đạo bởi vì người ta cho là thay đổi như thế là không có nguồn gốc, làm như thế là phản động nên người ta không cho.
Về vườn hoa này được 7 ngày rồi ở đây ăn uống rất là khổ sở. Người ta thấy dân oan đi đông như vậy nên người ta còn cắt cả nước, không cho uống nước rất là khát nước. Thậm chí ngày hôm kia bà con nhịn nước cả ngày.”
Người ta muốn theo đạo, muốn thay đổi tín ngưỡng để tin vào Đức Chúa Trời, để noi gương người và sống đời sống "tốt đạo đẹp đời" thế nhưng lại bị quy là phản động. Phải chăng CS chỉ có thể trói buộc những đảng viên bằng thẻ đảng và lợi lộc nên họ sợ một ngày đảng viên sẽ bỏ đảng hết. Còn tôn giáo người ta tin và sống với lý tưởng "đạo giữa đời" nên CS sợ những người giáo dân liên kết, hiệp thông trong tình thân ái và rồi lòng người được mở mang và CS sợ bị mất ngôi độc tôn?
Cách nào để bớt dân oan?
Xin thưa chỉ có một cách triệt để đó là thay đổi đất nước theo hướng tự do, dân chủ. Lúc đó con người sẽ có quyền tự do đúng nghĩa.


Việt Nam ký tham gia Công ước chống tra tấn

Việt Nam ký tham gia Công ước chống tra tấn


Ngày 7 tháng 11, Phái đoàn thường trực của Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc ra thông cáo báo chí cho biết Việt Nam đã trở thành thành viên mới nhất của Công ước Liên Hiệp Quốc chống Tra tấn và những hình phạt hoặc sự đối xử tàn ác, hạ nhục nhân cách (gọi tắt là UNCAT).

Phát biểu sau buổi lễ ký kết, Ðại sứ Lê Hoài Trung nhấn mạnh rằng bằng việc trở thành một bên ký kết vào Công ước, Việt Nam tái khẳng định “cam kết không lay chuyển” nhằm ngăn chặn bất cứ hành động tàn ác, sự đối xử vô nhân đạo, và bảo vệ tốt hơn quyền con người căn bản.

Thông cáo nói ký tham gia Công ước là một bước cụ thể trong quá trình chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam, và nêu bật Việt Nam sẵn sàng là một thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.

Ðại sứ Trung cũng tin rằng tham gia Công ước là cơ hội để Việt Nam cải thiện hơn nữa hệ thống pháp lý để bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền.

Lâu nay những tổ chức nhân quyền vẫn lên tiếng về nhiều trường hợp công an Việt Nam tra tấn, hành hung và ép cung người bị bắt giữ. Trường hợp mới đây nhất là ông Nguyễn Thanh Chấn vừa được trả tự do sau khi chịu 10 năm tù oan.

Trong một cuộc phỏng vấn gần đây với VOA, luật sư của ông Chấn nói Việt Nam tham gia rất nhiều công ước quốc tế nhưng trên thực tế vẫn ‘nói một đằng làm một nẻo’.

Công ước UNCAT được Ðại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua vào ngày 10 tháng 12 năm 1984. Tính đến nay đã có 154 quốc gia phê chuẩn
.(Nguồn: http://www.voatiengviet.com/content/viet-nam-ky-tham-gia-cong-uoc-chong-tra-tan/1786746.html)

Hy vọng là chính phủ Việt Nam tôn trọng những gì mà bản thân mình đã ký kết với LHQ để không còn cảnh dân oan với những bản án "bỏ túi" mà thế giới lâu nay vẫn lên tiếng.

Thursday, 7 November 2013

Dân oan biểu tình trước mặt trận tổ quốc

Dân oan biểu tình trước Mặt trận Tổ quốc


Sáng ngày 6 tháng 11,  khoảng 500 người dân 3 xã Xuân Quan, Phụng Công, Cửu Cao huyện Văn Giang tỉnh Hưng Yên đang biểu tình trước cửa trụ sở Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, 46 Tràng Thi Hà Nội.
Sáng ngày 6 tháng 11, khoảng 500 người dân 3 xã Xuân Quan, Phụng Công, Cửu Cao huyện Văn Giang tỉnh Hưng Yên đang biểu tình trước cửa trụ sở Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, 46 Tràng Thi Hà Nội.
blog/diendanchinhtri
Mấy trăm nông dân thuộc ba xã Xuân Quan, Cửu Cao, Phụng Công, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên sáng nay lại phải kéo nhau đến văn phòng Trung ương Mặt Trận Tổ Quốc tại 46 Tràng Thi, Hà Nội. Mục đích được cho biết nhằm yêu cầu cơ quan chức năng trung ương có ý kiến với các cấp chính quyền địa phương có biện pháp cụ thể ổn định trận tự tại địa phương trước những thành phần bất hảo công khai hoành hành tại đó.
Một người dân đi khiếu kiện trong đoàn cho biết như sau:
Hôm nay bà con đi độ khoảng 400-500 người thôi. Mục đích sang tại Mặt trận Tổ quốc là muốn họ giúp dân vì tình hình địa phương hiện nay rất phức tạp. Phức tạp là chỗ đất mà chúng tôi giữ lại để giữ nguyên hiện trường chờ đợi giải quyết, hiện nay họ cho máy múc, máy ủi rồi bơm cát vào khu đồng mà chúng tôi giữ. Đặc biệt nhất là nhóm gọi là xã hội đen cứ ngông cuồng dao kiếm trong đường làng. Dân chúng tôi không hài lòng chỗ đó. Bức xúc là ở chỗ đó. Đặc biệt nhất các cháu còn trẻ toàn là con em địa phương, và điều làm chúng tôi phải suy nghĩ là công an huyện bảo kê cho chúng làm như thế; nên chúng tôi không chấp nhận điều đó được.”
Tôi nói đây không phải là cưỡng chế mà là bức chế, vì không hề có thông báo, không hề có quyết định mà bây giờ bảo gia đình chúng tôi chống đối. Chúng tôi không nhận là chống đối mà dùng quyền lực áp bức gia đình tôi để đóng cọc mốc. Chúng tôi đã sống và canh tác trên mảnh đất này là 27 năm rồi.
Một phụ nữ
Trong khi đó tại phía nam, một hộ gia đình tại khu phố 8, phường Long Bình, thành phố Biên Hòa từ hôm qua đến hôm nay 6 tháng 11 tỏ ra vô cùng bức xúc khi một đoàn công tác gồm các lực lượng chức năng đến đóng cọc phân mốc trên đất của gia đình này mà không có văn bản thông báo theo đúng qui định của pháp luật.
Một phụ nữ trong gia đình cho Đài chúng tôi biết sự việc như sau:
Tôi nói đây không phải là cưỡng chế mà là bức chế, vì không hề có thông báo, không hề có quyết định mà bây giờ bảo gia đình chúng tôi chống đối. Chúng tôi không nhận là chống đối mà dùng quyền lực áp bức gia đình tôi để đóng cọc mốc. Chúng tôi đã sống và canh tác trên mảnh đất này là 27 năm rồi. Tôi nói với anh công an khu vực, đây là quyền sử dụng, chỉ sau 6 tháng tôi là người có quyền sử dụng. Anh ấy có hỏi tôi rằng quan trọng là quyền sở hữu. Tôi nói nếu quyền sở hữu thì tôi đấu tranh kiểu khác chứ không nói bằng miệng như thế này. Không thông báo gì cả mà hiên ngang vào.
Lực lượng chiều hôm qua: cả công an, cả bộ đội và phường khoảng dưới 50 người. Lực lượng công an đông hơn 10 người với còng, súng… cùng với một xe thùng nữa. Lực lượng của phường cũng huy động đông hơn, có 4-5 chị em phụ nữ nữa. Theo như anh Châu bên hình sự thành phố nói là phạm nhân. Còn lực lượng bộ đội xuống khu vực ruộng nhà tôi khoảng trên 100 người. Tôi nghe người ta nói còn rải đều cách khu vực đóng cọc chừng 100 mét đổ ra, họ sợ gia đình chúng tôi khủng bố gì đó; nhưng gia đình chúng tôi trẻ già, lớn bé chỉ có hơn 10 người và đấu tranh bằng lời, đúng pháp luật, đúng sự thật.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam báo cáo tại kỳ họp đang diễn ra tại Hà Nội rằng từ năm 2003 đến năm 2010, các cơ quan chức năng từ cấp địa phương đến Trung ương tiếp nhận và xử lý trên 1,2 triệu đơn thư khiếu nại, tố cáo. Trong đó lĩnh vực đất đai chiếm đến 70%.
Trường hợp ba xã ở huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên là một vụ lớn vẫn chưa được giải quyết và trường hợp của gia đình vừa nêu tại khu phố 8, phường Long Bình, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai hẳn sẽ là một vụ mới nếu như vẫn tiếp diễn như lời người trong cuộc vừa cho biết.
Nguồn: http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/van-gian-land-victim-11062013053127.html

Tuesday, 5 November 2013

Kinh tế xuống đáy vì thiếu cải cách thể chế

Kinh tế xuống đáy vì thiếu cải cách thể chế


dien-dan-305.jpg
Diễn đàn Kinh tế Mùa thu ở Huế trong hai ngày 26 và 27/9.
Courtesy ld.com.vn
Cải cách thể chế là một trong ba khâu đột phá chiến lược được nhà nước Việt Nam đặt ra và tiến độ cải cách thể chế gắn liền với tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình đầu tư. Tuy vậy các học giả, chuyên gia tại Diễn đàn Kinh tế Mùa thu ở Huế vừa qua đánh giá là cải cách thể chế dậm chân tại chỗ làm trì trệ nền kinh tế.

Khuynh hướng tăng vai trò nhà nước

Nam Nguyên phỏng vấn bà Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban tư Vấn của Thủ tướng Chính phủ về vấn đề này. Từ Hà Nội trước hết bà Phạm Chi Lan nhận định:
Phạm Chi Lan: Ý kiến của rất nhiều người tại Diễn đàn Kinh tế Mùa thu cho rằng cải cách thể chế được tiến hành khá là chậm chạp, chưa mang lại kết quả như mong muốn. Vì cải cách thế chế chậm nên các mục tiêu quan trọng của tái cơ cấu kinh tế cho đến nay cũng chưa được thực hiện bao nhiêu. Thí dụ như tái cơ cấu ngân hàng, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, tái cơ cấu đầu tư công đều chậm. Tình hình kinh tế khó khăn trong mấy năm vừa qua liên tục kéo dài cho đến năm nay, triển vọng cũng chưa rõ trong thời gian tới. Ý kiến chung cũng cho là nguyên nhân chính là do cải cách thể chế không được tiến hành đúng như yêu cầu cần thiết.
Cải cách thể chế phải làm rõ ra được vai trò nhà nước và thị trường phân định vai trò hai bên, nhà nước làm gì thị trường làm gì trong phát triển kinh tế. Vì những năm vừa qua cho thấy khuynh hướng tăng vai trò của nhà nước lên cũng quá rõ và quá lớn, vì vậy tất cả những qui định, chính sách ban hành nhiều khi thiên về mang thuận lợi cho nhà nước gây khó khăn cho doanh nghiệp hoặc môi trường kinh doanh chậm được cải thiện kéo dài, cũng như không phát huy được hết tiềm lực của các lực lượng, nhất là doanh nghiệp dân doanh. Ngay cả đầu tư nước ngoài tiền đổ vào với mức độ khá nhưng vẫn chưa như mong muốn và các nhà đầu tư nước ngoài vẫn còn kêu ca nhiều về những khó khăn trong môi trường kinh doanh ở Việt Nam.
Nam Nguyên: Vấn đề cải cách thể chế bị chậm và không rõ ràng cũng không đúng hướng, thưa bà bắt nguồn từ những nguyên nhân như thế nào?
Phạm Chi Lan: Có nhiều ý kiến trong hội thảo cho là, trong điều hành lại không tuân thủ theo các yêu cầu về cải cách thể chế là vì cải cách thể chế kể cả cải cách thể chế chính trị đều đã được nêu rõ trong Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ 11, cũng như trong chiến lược của Việt Nam mà Đại hội Đảng thông qua cho giai đoạn 2011-2020 thì cũng có đề cập đến cải cách chính trị nữa. Nhưng mà trên thực tế cả thể chế kinh tế lẫn thể chế chính trị đều cải cách rất chậm chạp chứ không như mong muốn.
Tap-doan-xang-dau-12-250.jpg
Trụ sở Petro Việt Nam tại Hà Nội hôm 24/12/2011. RFA PHOTO.
Trong điều hành thậm chí có những cái còn đi ngược lại nữa. Thí dụ thay vì cải cách doanh nghiệp Nhà nước là giảm bớt đi những thứ không cần thiết, thì trong thời gian vừa qua lại để cho tràn làn đầu tư ngoài ngành quá lớn đến mức dẫn đến sụp đổ như Vinashin hoặc là có quá nhiều vấn đề, thì mới có chỉ thị thu hẹp lại các doanh nghiệp Nhà nước, chấn chỉnh tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước, thu lại bớt các lĩnh vực đầu tư ngoài ngành để tập trung vào các lĩnh vực cốt lõi.
Điều hành như vậy ngược với chủ trương cải cách doanh nghiệp Nhà nước hay là đối với nhiều lĩnh vực khác cũng vậy, thay vì phải có những công cụ bằng thể chế bằng luật pháp đưa ra các qui định để thực hiện thì lại ban hành quá nhiều những văn bản mang tính chất hành chính để điều hành. Ví dụ như đối với hệ thống ngân hàng, thành ra nó làm cho các công cụ của thị trường không được thực hiện một cách đầy đủ, một cách nhất quán hay đồng bộ và nó cứ bị chắp vá và nó không thể có hiệu quả được.

Không đảm bảo tinh thần Hiến pháp

Nam Nguyên: Thưa bà vấn đề chủ đạo nền kinh tế giao cho Tập đoàn Tổng công ty Doanh nghiệp Nhà nước, khu vực kinh tế Nhà nước ghi trong Hiến pháp1992 có cần được bãi bỏ hay không và theo bà sắp tới có thay đổi hay không?
Phạm Chi Lan: Trong quá trình thảo luận về Hiến pháp thì có rất nhiều ý kiến cho là không nên đưa ‘kinh tế Nhà nước là chủ đạo’ vào Hiến pháp. Trong bản Dự thảo đầu tiên Hiến pháp sửa đổi để ra lấy ý kiến trong xã hội thì cũng không có điều đó, chỉ nói là nền kinh tế ở Việt Nam là nền kinh tế có nhiều thành phần, cũng không nói kinh tế Nhà nước là chủ đạo. Việc không đưa kinh tế Nhà nước là chủ đạo thì được rất nhiều ý kiến hoan nghênh và sau đó khi Quốc hội bàn thảo thì lại đưa trở lại vào. Đến bây giờ thì nó vẫn có hai phương án khác nhau đối với điều đó, một phương án vẫn đưa kinh tế Nhà nước là chủ đạo và một phương án thì không đưa. Quyết định cuối cùng sẽ ở Quốc hội trong kỳ họp tới khi bàn và biểu quyết về Hiến pháp.
Chúng tôi cũng rất tiếc về điều đó, bởi vì theo ý kiến của rất đông đảo chuyên gia thì cho là không nên đưa kinh tế Nhà nước là chủ đạo vào Hiến pháp, bởi vì như vậy sẽ được hiểu là doanh nghiệp Nhà nước là thành phần nòng cốt, một biểu hiện quan trọng hàng đầu của kinh tế Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước vẫn được Nhà nước kỳ vọng, vừa là lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chủ trương vai trò chủ đạo của mình vừa là công cụ để Nhà nước điều tiết nền kinh tế, ổn định thị trường. Tức là đặt cho nó rất nhiều vai trò mà nó không thể nào đảm đương hết được. Cũng không hợp lý khi giao cho doanh nghiệp những vai trò như vậy.         
Nam Nguyên: Thưa bà, tại New York mới đây, Thủ tướng hứa hẹn thực hiện công khai minh bạch khi mời gọi doanh nghiệp nước ngoài đầu tư thêm vào Việt Nam. Đây cũng là một vấn đề liên quan tới thể chế, vậy thì Việt Nam có thể cải thiện vấn đề công khai minh bạch này hay không?
Phạm Chi Lan: Khả năng cải cách, cơ hội cải cách thì bao giờ cũng có. Chỉ có điều những người lãnh đạo có đủ quyết tâm chính trị mà làm hay không, có làm tới nơi tới chốn hay không thôi.
Việt Nam hoàn toàn có khả năng làm công khai minh bạch theo cách là thiết chế lại xem lại rà soát lại tất cả luật pháp, hệ thống chính sách. Những chỗ nào không hợp lý, chỗ nào chưa đảm bảo được độ minh bạch thì phải sửa lại cho nó minh bạch hơn. Ví dụ như trong Hiến pháp chẳng hạn có rất nhiều điều chúng tôi góp ý kiến không nên đưa là ‘theo qui định của pháp luật’ mà nên đưa là ‘theo luật định’ thì như vậy nó sẽ làm rõ chỉ có luật mới có quyền qui định, có quyền đưa ra những thể chế để thực hiện các điều khoản của Hiến pháp.
Còn nếu chung chung là ‘theo qui định của pháp luật’ thì pháp luật sẽ được hiểu rất rộng. Như vậy nó sẽ làm loãng đi và có thể có nguy cơ rất lớn là từ một qui định trong Hiến pháp, nhưng sẽ được đưa ra theo nhiều cách khác nhau, hoặc theo tính cách không đảm bảo tinh thần đầu tiên của Hiến pháp nữa.
Thành ra có những điều cần phải minh bạch ngay từ đầu, từ trong Hiến pháp trở đi. Trên cơ sở đó thì các Luật cũng phải qui định theo cách đó. Nhất là chúng tôi mong muốn không phải chỉ minh bạch mà còn phải nhấn mạnh trách nhiệm giải trình nữa, bởi vì ở Việt Nam với cơ chế lãnh đạo tập thể thì trong vô vàn trường hợp, rốt cục không biết ai là người chịu trách nhiệm trước việc này việc khác xảy ra cho xã hội. Hay là đối với cách điều hành của Nhà nước đối với các hoạt động kinh tế xã hội nữa.
Nam Nguyên: Cảm ơn bà Phạm Chi Lan đã trả lời RFA.

Hành xử của an ninh và phản ứng của người dân

Hành xử của an ninh và phản ứng của người dân


000_Hkg9055048-305.jpg
An ninh làm hàng rào ngăn chặn người dân đến dự phiên xử LS. Lê Quốc Quân hôm 02/10/2013 tại Hà Nội.
AFP photo
Một số người tại Việt Nam do có những hành động yêu nước công khai cũng như dám đứng ra giúp đỡ, bênh vực cho những người dân oan khiếu kiện đã bị đánh đập, sách nhiễu một cách vô cớ.

Bị đánh do hành động yêu nước

Phiên xử án facebooker Đinh Nhật Uy hồi ngày 29 tháng 10 vừa qua thu hút sự chú ý của những người quan tâm. Lý do theo những người này anh Đinh Nhật Uy không làm gì vi phạm pháp luật, thậm chí hành động của anh này còn chứng tỏ lòng yêu nước, chống Trung Quốc gây hấn xâm lấn Việt Nam, cũng như tệ nạn tham nhũng gây hại cho quốc gia...
Trong số những thanh niên trẻ về Long An từ đêm hôm trước để dự phiên xử , có anh Peter Bùi đã bị lực lượng chức năng bắt lên xe và đánh khi anh này hô các khẩu hiệu đòi công lý, tự do và chống bất công xã hội tại Việt Nam. Anh này kể lại sự việc đó:
"Sau khi bị nhốt lên xe, tôi mở cửa sổ thò đầu ra để hô tiếp những câu khẩu hiệu, do lúc đó xe đang đứng ở ngã tư có rất nhiều người xung quanh. Tôi hô ‘Tự do cho Đinh Nhật Uy, tự do cho những người yêu nước, tự do cho dân tộc Việt Nam. Hoàng Sa- Trường Sa- Việt Nam. Có một viên an ninh đang cầm máy quay tiến lại đấm tôi  một cái vào mặt. Tôi rất đau vì lúc đó ở trên xe, mọi người giữ phía sau tôi lại, tôi chỉ chồm được một đầu ra thôi. Choáng quá tôi lấy tay che mặt, thì người đó đánh tôi thêm một cái vào mang tai bên kia nữa."

Họ sợ bên ngoài nhìn thấy nên cùm chân chúng tôi và kéo lên tầng trên tra tấn chúng tôi, xích tay đánh. Kết quả tôi bị gãy 3 xương sườn, anh Lê Thiện Nhân bị đánh đến sưng hết cả đầu, cả mặt.
- Ông Trương Văn Dũng
Ông Lưu Trọng Kiệt, một người từ Sài Gòn về Long An dự phiên tòa xử Đinh Nhật Uy cũng bị đánh một cách vô vớ như lời kể của ông này:
"Hôm đó trên facebook có thông báo về cuộc xử một blogger ở dưới Tòa án Long An, một vụ xử công khai. Nghe nói vụ xử công khai tôi cũng xuống để xem phiên xử công khai một blogger đầu tiên dính vào điều 258. Tôi xuống không thấy dân đâu mà thấy toàn công an, an ninh với dân phòng. Tôi lấy máy ra tính chụp hình thì mấy ông an ninh mặc đồ dân sự ‘bay’ lại bẻ tay, giật máy và đánh tôi. Họ đánh mấy phút rồi khiêng lên xe Jeep đưa về Phường 7, ở đó họ đánh tôi một trận nữa."

Bị sách nhiễu do công khai chống ngoại bang xâm lược

Đôi vợ chồng Paulo Thành Nguyễn - Trịnh Kim Tiến, người có cha bị công an đánh chết, luôn bị địa phương sách nhiễu. Cả hai người này là thành phần từng tích cực tham gia các hoạt động yêu nước như biểu tình chống Trung Quốc gây hấn, xâm lược Việt Nam, kêu gọi tẩy chay những hàng hóa độc hại của Trung Quốc cũng như lên tiếng cho công lý, hòa bình tại Việt Nam. Họ thường xuyên bị sách nhiễu bằng những hành vi theo dõi, ném sơn vào nhà và gần đây là áp lực chủ nhà không cho họ thuê trọ.
Anh Paulo Thành Nguyễn cho biết:
"Việc ném sơn đến bây giờ vẫn không biết được ai làm, mặc dù mình đã đưa tất cả thông tin camera quay nhưng vẫn chưa biết ai làm. Còn việc mới đây nhất phải chuyển nhà có tác động của địa phương, công an địa phương. Người ta làm khó chủ nhà đủ mọi chuyện. Thật ra khi hỏi họ về quyền tạm trú thì họ không nói đến điều đó mà cứ vòng vo rằng không cấm ở mà có cái này, cái kia chưa được. Họ áp lực chủ nhà bắt mình phải dọn đi. Chủ nhà có công ty nên công an ‘hù’ nếu mình ở đó họ sẽ kiểm tra công ty... nên chủ nhà cũng lo sợ. 
Công an còn lui tới chụp hình tại căn nhà nơi chúng tôi đang ở. Họ cũng đến đánh tiếng hỏi bảo vệ đã dọn đi chưa khiến cho những người đang ở đó hoang mang, không biết chúng tôi thuộc thành phần nào mà ‘rắc rối’ như vậy. Chủ nhà sợ nên bắt buộc phải dọn ngay trong đêm không được ở thêm tiếng nào!"

Bị đánh đến thương tật do giúp dân oan

Một trường hợp bị đánh đến bị thương nhiều lần và lần gần nhất gãy xương sườn ngay tại đồn Công an Thụy Khuê hồi tối ngày 25 tháng 10 vừa qua là ông Trương Văn Dũng khi ông này cùng một số người khác đến hỏi về những tài sản giúp cho bà con H’mong xuống Hà Nội khiếu kiện và bị lực lượng chức năng bắt đưa về lại địa phương.
Trong khi đang phải dưỡng thương tại nhà, ông Trương Văn Dũng kể lại sự việc như sau:
"Chuyện ở công an Thụy Khuê, theo tôi nghĩ đầu tiên cũng không có gì. Hồi ngày 23 tháng 10 rạng ngày 24, lúc 11 giờ đêm tôi nghe điện thoại báo của bà con và tôi đến thì thấy họ đã bắt hết bà con đưa lên xe về Ngô Thì Nhậm. Sau đó tôi tìm hiểu về số chiếu cá nhân mà bà con giúp gần 100 chiếc, với thông tin nhận được là số chiếu này bị đưa về công an phường Thụy Khuê.
000_Hkg9055046-250.jpg
Một nữ tu Phật giáo yêu cầu trả tự do cho LS. Lê Quốc Quân hôm 02/10/2013 trước TAND Hà Nội. AFP photo
Khoảng 3:30 chiều ngày 25 tôi cùng anh Lê Thiện Nhân cùng hai chị dân oan đến Công an phường Thụy Khuê. Đến đó, anh Lê Thiện Nhân vào trước hỏi xin lại số đồ mua để giúp cho bà con H’mông. (Công an) họ trả lời rất xấc láo ‘Ở đây không thu!’. Nghe câu trả lời như thế chúng tôi rất khó chịu, nhưng anh Lê Thiện Nhân vẫn nhẫn nại hỏi ‘Thế các anh có biết ở đâu thu không?’. Họ trả lời ‘Không biết, tự đi mà tìm’. Họ trả lời thế, chúng tôi cũng không nói câu gì thêm.
Tôi thấy bức xúc quá, nên lấy máy ảnh ra quay chụp những lời nói, hành động xấc xược vì chúng tôi đáng tuổi cha, chú các anh ấy mà trả lời những câu như thế. Tôi lấy máy ảnh ra thì họ lao vào cướp máy ảnh bảo rằng ‘Ở đây không được quay phim, chụp ảnh’. Lời qua tiếng lại, họ lôi vào chúng tôi vào đồn, chúng tôi phản đối nên họ đánh chúng tôi. Sau đó họ cùm tôi với anh Lê Thiện Nhân lại. Họ sợ bên ngoài nhìn thấy nên cùm chân chúng tôi và kéo lên tầng trên tra tấn chúng tôi, xích tay đánh. Kết quả tôi bị gãy 3 xương sườn, anh Lê Thiện Nhân bị đánh đến sưng hết cả đầu, cả mặt."
Vào sáng ngày 4 tháng 10, chúng tôi gọi điện đến số của ông trưởng công an phường Thụy Khuê để hỏi thông tin mà ông Trương Văn Dũng vừa trình bày, thì sau một lúc máy reo, khi người trả lời được hỏi có phải ông Thi, trưởng Công an phường Thụy Khuê Hà Nội hay không, thì được trả lời là nhầm số.

Khiếu nại

Ông Lưu Trọng Kiệt, người bị lực lượng chức năng tại thành phố Tân An, tỉnh Long An đánh đến rạn xương má hồi ngày 29 tháng 10 vừa qua cho biết khi bình phục ông sẽ có đơn khiếu nại về việc đánh ông một cách vô cớ trên đường, cũng như tại Công an Phường 7, thị xã Tân An khi lực lượng chức năng đưa ông về đó:
"Tôi đang xin giấy chứng thương để kiện chính quyền dưới đó."
Ông Trương Văn Dũng, người bị công an tại phường Thụy Khuê, thành phố Hà Nội đánh gãy ba xương sườn hồi ngày 25 tháng 10, lại cho biết việc khiếu kiện cơ quan này cũng mất công vì từ lâu ông từng chứng kiến bao cảnh người dân khiếu kiện rơi vào tỉnh cảnh ‘con kiến mà kiện củ khoai’. Ông nói:
Tôi luôn nghĩ những việc mình làm và quan điểm mình sống là cách sống của mình rồi, mình không thể nào từ chối cách sống của mình được.
- Anh Paulo Thành Nguyễn
"Lần trước chúng tôi đưa hình ảnh lên truyền thông để tố cáo hành vi của họ. Tôi nghĩ trường hợp của tôi cũng như hằng bao nhiêu người dân khác họ; khiếu nại không ăn nhằm gì với họ. Kể cả đánh chết trong đồn công an mà họ phủi tay. Họ chối hết, chẳng làm gì được họ. Chính quyền của họ là một hết!"
Anh Paulo Thành Nguyễn cũng chỉ ra hình thức làm việc thiếu minh bạch của cơ quan chức năng khiến cho việc khiếu kiện họ không dễ dàng gì:
"Thực ra khiếu kiện cũng khó vì hành động họ làm đều lén lút và bằng miệng nên khi mình kiện không có cơ sở; thậm chí họ còn kiện lại mình. Khi hỏi họ chối, thoái thác. Mình chỉ cho họ biết dù họ làm gì mình vẫn sống. Đến lúc họ thấy không làm gì được  mình thì họ cũng xấu hổ về những hành động của họ."
Ông Lưu Trọng Kiệt thì cho rằng dù không tin đơn kiện của ông được giải quyết, nhưng bản thân ông phải làm thế để chứng tỏ cho chính quyền biết là người dân không còn sợ sệt trước những hành xử phi pháp, vô cớ của cơ quan chức năng; đồng thời kêu gọi người khác phải vượt qua nỗi sợ hãi trong họ lâu nay:
"Tôi không tin họ giải quyết, nhưng tôi vẫn phải làm đơn khiếu kiện để báo động cho họ biết nếu nhà cầm quyền làm sai dân có thể khiếu kiện. Mình phải làm cho người dân vượt qua nổi sợ hãi. Đa số dân Việt Nam chưa vượt qua sợ hãi, nhưng mình và ai đó làm thì người ta bắt chước làm theo. Hy vọng từ từ họ hiểu và vượt qua nỗi sợ hãi đó. Qua trang mạng như Dân Làm Báo, tôi biết và thấy được nhà cầm quyền đánh dân vô cớ. Có nhiều chuyện mà không thể nói về nhà cầm quyền này."

Không khuất phục

000_Hkg8650243-250.jpg
An ninh mặc thường phục đàn áp, bắt bớ người biểu tình chống Trung Quốc ở Hà Nội hôm 02/6/2013. AFP photo
Anh Paulo Thành Nguyễn cũng cho biết các biện pháp mà chính quyền liên tục thực hiện đối với hai vợ chồng anh không thể nào buộc bản thân anh này phải thay đổi những việc làm lâu nay mà họ cho là đúng. Anh nói:
"Tôi luôn nghĩ những việc mình làm và quan điểm mình sống là cách sống của mình rồi, mình không thể nào từ chối cách sống của mình được. Dù xảy ra chuyện gì và  họ có sách nhiễu ở mức độ cao hơn nữa, tôi thấy vẫn bình thường. Khi mình đã xác nhận cuộc sống của mình là sống cho sự thật và sống cho đúng lương tâm của mình, thì hình thức xấu nhất tôi cũng đã nghĩ tới, nên vấn đề sách nhiễu đối với tôi là bình thường, và có trả giá theo cách sống của mình thôi! Nhưng trong mọi hoàn cảnh tôi thấy rất bình an vì lương tâm mình rất ‘nhẹ’. Họ có làm gì mình cũng thấy bình thường.
Hôm tối dọn nhà, thực tế chẳng không ai biết, nhưng có 4-5 an ninh mật vụ theo rất sát, từ chiều đến tối luôn. Họ xem làm gì, khi ra ngoài họ hỏi dọn đi chưa. Đến 12 giờ dọn xong họ vẫn theo sát; tôi đến nói chuyện với họ theo từ sáng đến giờ có mệt không. Tôi hỏi họ đang học hay đã ra trường. Họ nói làm bên thành phố và trẻ nên mới có thể theo tôi."

Tôi không tin họ giải quyết, nhưng tôi vẫn phải làm đơn khiếu kiện để báo động cho họ biết nếu nhà cầm quyền làm sai dân có thể khiếu kiện. Mình phải làm cho người dân vượt qua nỗi sợ hãi.
- Ông Lưu Trọng Kiệt
Ông Trương Văn Dũng cho biết dù bị đánh đập đến thương tích qua những lần đi giúp dân oan hay tham dự phiên xử như xử ông Đoàn Văn Vươn, nhưng ông lại được nhiều người thậm chí không quen biết chia xẻ, giúp đỡ, động viên. Ông cho biết:
"Nói thật đợt vừa rồi tôi bị hao tổn về sức khỏe, nhưng tinh thần vui và ấm lòng vì anh em, bạn bè đến hỏi thăm, giúp đỡ cả về tinh thần và vật chất. Nhiều bà con Việt Kiều hải ngoại không biết mặt, biết tên nhưng họ lên mạng biết đến tôi cũng đã điện thoại, chia xẻ gửi quà cho tôi. Những điều đó khiến tôi vui, hạnh phúc vì mọi người nghĩ đến tôi. Trong thâm tâm tôi nghĩ phải làm sao làm những điều tốt hơn trước đây đã làm. Những người nghĩ đến tôi mà tôi chưa hề biết họ, cũng như giúp họ; câu nói của họ làm cho tinh thần tôi được nâng lên một bước là ‘dù ở hoàn cảnh nào, hằng ngày chúng tôi cũng theo dõi từng bước chân của các anh chị, và không để các anh chị đơn độc’. Câu nói đó làm tôi rất cảm kích và rất xúc động."
Những trường hợp được nêu ra mà quí thính giả vừa nghe không phải là cá biệt tại Việt Nam, rất nhiều người phải gánh chịu các hành xử vô lý, bất công từ phía cơ quan chức năng chỉ vì họ là những người yêu nước chân chính, những tiếng nói chống lại cường quyền, bất công và vì công lý, công bằng, sự thật cho tất cả đồng bào của họ.

Monday, 4 November 2013

Tù Chính Trị Và Hệ lụy đối với thân nhân của họ ở Việt Nam

Tù chính trị tại Việt Nam


nguyen_cong_chinh_305.jpg
Mục sư Nguyễn Công Chính tại phiên tòa ở Gia Lai ngày 26 tháng 3 năm 2012.
Courtesy chinhphu.vn

Trong năm 2012 vừa qua, có nhiều công dân Việt Nam bị khởi tố với các tội danh liên quan đến chính trị. Hệ lụy sự việc không chỉ dừng lại với bản thân những người bị tuyên án mà còn liên quan đến cả thân nhân của những người này, đến những đứa trẻ 3 tuổi. Cụ thể, các câu chuyện này diễn biến như thế nào?
Qua trao đổi với những người vợ tù chính trị, Nhân Khánh gởi đến quý vị, bản tường trình sau:

Biệt giam

Hồi năm ngoái, trong vụ xử các nông dân khiếu kiện đất đai tại Bắc Giang, có 3 người bị tuyên án tổng cộng gần 14 năm tù. Chúng tôi có cuộc trao đổi với bà Dương Thị Hà, vợ của ông Đỗ Văn Hoa – người có mức án 4 năm tù giam và 3 năm quản chế với tội danh “tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN Việt Nam”. Về cuộc sống hiện nay ở trong tù của chồng và những người liên quan vụ án, bà Dương Thị Hà cho biết:
“Hiện nay, chồng của tôi bị giam giữ rất là khổ. Chồng tôi bảo là người ta cho ăn toàn cơm sống thôi, không có thức ăn gì cả, chỉ có mấy cọng rau. Uống nước cống rãnh. Hoàn toàn là do người nhà tiếp tế, phải mua của người ta rất chi là đắt. Ở ngoài một, nhưng ở trong đấy phải nhiều gấp mấy lần tiền thì mới mua được thức ăn tương đương.
Hồi mới lên, người ta nhốt anh ấy chung phòng với mọi người. Sau này, người ta bảo chồng tôi là thành phần ngoan cố, thành phần đi kích động nọ kia. Bây giờ người ta bảo, nếu chồng tôi như vậy thì người ta sẽ giam vào phòng riêng. Trước đây, chồng tôi bị giam ở Yên Thế, Bắc Giang. Bây giờ chồng tôi đang ở trại giam Ba Sao ở Nam Hà. Trong ba người chung vụ án, ông Đinh Văn Nhượng và anh Hoa thì giam chung ở trại Ba Sao. Còn ông Nguyễn Kim Nhàn thì bị đưa lên trại giam số 5, ở trong Thanh Hóa.”
Đa số người dân Việt Nam vẫn gắn liền với ngành nông nghiệp, đất đai là một phần máu thịt của người nông dân. Những chính sách trưng dụng đất không thỏa đáng của nhà cầm quyền như nhát búa đập thẳng vào xương sống của quần chúng. Nhận xét về trường hợp ông Đỗ Văn Hoa bị bắt giam, bà Dương Thị Hà cho biết ý kiến:
Chồng của tôi bị giam giữ rất là khổ. Chồng tôi bảo là người ta cho ăn toàn cơm sống thôi, không có thức ăn gì cả, chỉ có mấy cọng rau.
-Bà Dương Thị Hà
“Tôi thấy pháp luật Việt Nam làm như thế là sai. Bởi vì người dân có quyền đi khiếu kiện việc gia đình bị mất đất, nhưng người ta lại cho anh ấy là tội tuyên truyền chống lại nhà nước. Nhốt anh ấy cách ly đến tận hôm xử. Đến hôm xử thì không cho tôi vào. Hôm ấy có rất nhiều công an, các loại công an luôn. Giăng dây thép gai khắp nơi, không có ai vào.
Chồng tôi chỉ là người đi khiếu kiện bình thường. Ở tỉnh Bắc Giang lấy của nhà tôi 1 mẫu 1 sào 4 thước ruộng. Nhà tôi chỉ còn mấy sào ruộng để cấy thôi.”
Sau khi ông Đỗ Văn Hoa bị bắt, vụ khiếu kiện đất vẫn chưa được giải quyết. Theo bà Dương Thị Hà, trường hợp này không phải xảy ra chỉ riêng với gia đình bà ấy:
“Từ khi anh ấy bị bắt, tôi vì lo giữ mấy đứa con nhỏ nên không làm được gì, cho nên phải dừng việc khiếu kiện lại. Người ta chẳng giải quyết như thế nào cả, người ta để im. Đến tận bây giờ, nhà nước lấy ruộng nhà tôi đem cho thuê, nhà tôi đòi thì người ta không trả. Cứ ở trên thì đùn xuống ở dưới, ở dưới lại đẩy lên bên trên.
Ở đây xảy ra rất nhiều. Họ lấy đất của nông dân rồi đem bán, hoặc họ bỏ không ra. Khiến nông dân không có ruộng mà làm, người dân thì đang thất nghiệp. Các xã gần đây cũng vậy, người ta đi khiếu kiện rất đông. Ở tỉnh Bắc Giang rất nhiều trường hợp khiếu kiện, ngày nào cũng có nhiều người kéo nhau đi.”

Đánh đập thân nhân

baHong-250.jpg
Bà Trần Thị Hồng, vợ mục sư Chính cùng con gái út, ảnh chụp trước đây. Photo courtesy of DanLamBao.
Chúng tôi cũng vừa nhận được tin bà Trần Thị Hồng, vợ của Mục Sư Nguyễn Công Chính vừa bị công an tỉnh Gia Lai tiếp tục mời lên làm việc. Đây là trường hợp một phụ nữ khác, cũng có chồng bị tù đày với những tội danh liên quan đến chính trị. Chúng tôi được bà Trần Thị Hồng cho biết:
“Hôm qua thì họ có đưa giấy mời để gọi tôi lên làm việc. Trong giấy mời đó thì có nói là sẽ làm một số việc có liên quan. Tuy nhiên thì tôi cũng không có biết sự việc gì có liên quan cả. Nhưng tôi không có đi, vì thứ nhất là con cái của tôi có 4 đứa, không có người chăm sóc. Thứ hai là bản thân tôi đã bị công an tỉnh Gia Lai đánh đập rất nhiều lần rồi. Đó là một điều tôi thấy bức xúc vô cùng, cho nên khi họ mời tôi thì tôi không có đi.
Sáng hôm nay, họ cho ông Tổ trưởng đến gọi tôi lên công an nhưng tôi nhất quyết không đi. Nếu có vấn đề gì thì cứ trực tiếp xuống nhà. Tôi bị đánh đập rất nhiều lần rồi. Không tin được.”
Trong hoàn cảnh nhiều khó khăn như vậy, chúng tôi có hỏi thăm vợ Mục Sư Nguyễn Công Chính về những suy nghĩ và dự định trong tương lai. Bà Trần Thị Hồng cho chúng tôi biết:
“Tôi không biết là những ngày sắp tới đây thì họ sẽ tiếp tục làm gì với gia đình tôi. Nhưng mà trong hiện tại, gia đình gồm 5 mẹ con của tôi, sao mà cuộc sống nhiều bất an quá. Từ khi ông Mục Sư Chính bị bắt với một bản án 11 năm, mà họ vẫn chưa có buông tha cho gia đình tôi.
Bản thân tôi đã bị công an tỉnh Gia Lai đánh đập rất nhiều lần rồi. Đó là một điều tôi thấy bức xúc vô cùng, cho nên khi họ mời tôi thì tôi không có đi.
-Bà Trần Thị Hồng
Tôi không nói tới việc bản thân mình bị đánh đập nhiều lần, nhưng 4 đứa con của tôi thì còn quá nhỏ, tôi cảm thấy đau xót cho 4 đứa con của tôi quá. Đứa nhỏ nhất thì năm nay, cháu được 30 tháng chứ chưa được 3 tuổi; còn đứa lớn nhất mới được 10 tuổi, được 4 đứa như vậy. Chúng còn nhỏ quá, cho nên khi chúng thấy cái hình ảnh chính quyền đi xuống nhà như vậy, chúng hoang mang lo sợ lắm.
Các con tôi thấy rất nhiều lần những cảnh tượng xảy ra với cha mẹ mình. Chúng từng nói, mẹ nên đi trốn đi. Tôi đã trả lời, mình không có vi phạm gì để phải trốn tránh hết. Con tôi lại nói, nhưng mà con sợ quá mẹ ơi. Khi nghe con mình nói như vậy, tôi cảm thấy đau đớn lắm.”
Khi được hỏi về các mong muốn, những người phụ nữ đang trao đổi với chúng tôi, họ có vẻ như quên đi những khổ nhọc của bản thân. Những người phụ nữ luôn nghĩ về chồng của họ, những người đàn ông đang bị giam cầm ở một nơi xa xôi nào đó. Bà Dương Thị Hà cho chúng tôi biết:
“Mong là mọi người lên tiếng giúp tôi, để cho người ta bớt hành hạ chồng của tôi. Tôi rất sợ là chồng mình sẽ bị nhốt vào phòng… tôi cũng không biết phòng riêng là phòng gì. Tôi rất lo sợ chồng của tôi sau này sẽ bị ảnh hưởng đến sức khỏe, tâm lý.
Tôi rất mong mọi người giúp cho tôi. Bây giờ ở nhà chỉ có một mình, tôi chẳng biết phải làm thế nào cả. Tôi chỉ là người làm ruộng. Tôi không đi đâu được cả vì không có người trông con tôi. Khi nào đi làm, tôi lại gởi chúng sang nhà bà ngoại, đến sẫm tối thì lại đón chúng về. Đứa nhỏ nhất là gần 3 tuổi, hôm anh Hoa bị bắt thì cháu ấy mới được có mấy tháng thôi.”
Liệu tiếng nói của những người phụ nữ Việt Nam có chồng đang bị giam cầm với các tội danh liên quan đến chính trị sẽ được lắng nghe như thế nào ? Câu trả lời thích đáng xin dành lại cho các cơ quan hữu trách Việt Nam và nhân quyền quốc tế.

Friday, 1 November 2013

Trại dân oan!

Trại dân oan


dan-oan-11-305
Dân oan từ nhiều tỉnh thành trong một lần tập trung ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng, Hà Nội đòi nhà nước giải quyết các bất công về đất đai, ảnh chụp trước đây.
File photo

Có những trại giam do chính quyền độc tài nghĩ ra để giam giữ tù nhân chính trị. Có những trại giam dùng để thủ tiêu người Do Thái trong chế độ Đức quốc xã, nhưng cũng có những nơi mà người cùng khổ vì bị bóc lột, áp bức đã tự tập trung kéo tới tá túc trong thời gian tranh đấu cho sự sống còn của họ trong một loại trại chưa từng có trong lịch sử loài người “Trại dân oan”.
Vườn hoa Mai Xuân Thưởng Hà Nội từ nhiều năm nay đã trở thành quen thuộc với hàng ngàn dân oan từ khắp nơi trên đất nước đổ về tạm trú thân trong lúc mang đơn gõ cửa các cơ quan tiếp dân của chính phủ với niềm tin là sẽ được giải quyết những vấn đề mà địa phương áp bức. Các tỉnh phía bắc như Quảng Ninh, Thái Bình, Thanh Hóa, Hòa Bình, Sơn La, Bắc Giang, Điện Biên, Quảng Bình, Ninh Bình, Tuyên Quang… các tỉnh miền Trung và cao nguyên như Ninh Thuận, Gia Lai, Đắc Lắc, Dak Nông, Đồng Nai, Bình Phước rồi miền Nam như Tiền Giang, An Giang, Bạc Liêu, Cà Mau…hầu như không còn chỗ nào mà người dân oan không biết tới Mai Xuân Thưởng, cái tên trở thành nhà, thành một loại trại dân oan không song sắt cho những mảnh đời oan khuất này.

Quốc hội họp: niềm hy vọng mỗi năm

Chính quyền biết rõ từng con người tại vườn hoa Mai Xuân Thưởng vì  người tới và đi trong gần 15 năm qua cũng bấy nhiêu khuôn mặt. Có khi họ tập trung vài chục, lúc cao điểm tới gần trăm, nhất là vào những ngày khai mạc Quốc Hội số người về đây đông hơn hẳn. Niềm tin vào đại biểu Quốc hội sẽ chú ý tới họ khiến một số rất lớn bỏ hết công ăn việc làm để khăn gói về Hà Nội kêu oan nhưng kết quả nhiều năm qua cho thấy chưa một đại biểu quốc hội nào lên tiếng chính thức tại diễn đàn về sự có mặt không đúng lúc của những con người dân không ra dân, phạm nhân không ra phạm nhân, ăn mày hay công nhân vệ sinh cũng không phải nốt.
Cuộc sống ở đây quá vất vả, người ta thì khác nhưng mấy người dân oan này thì khổ dữ lắm không có gì để mà sống, ăn rau không.
-Chị Hương
Họ không phải là dân vì nhiều người đã mất hộ khẩu, mất nhà cửa và mất cả đất đai. Họ không phạm bất cứ một tội gì để chính quyền xem họ là phạm nhân nhưng công an muốn săn đuổi, quát nạt hay cưỡng chế, đánh đập lúc nào cũng được. Họ không phải là công nhân vệ sinh nhưng người ta thấy không ít người thường xuyên nhặt nhạnh rác thải chung quanh vườn hoa để tạm sống trong khi ở quê nhà họ chưa bao giờ làm công việc này.
Họ đến Hà Nội, tự chấp nhận vào Trại dân oan vì không còn nơi nào khác họ có thể sống để theo đuổi việc khiếu kiện. Đất đai là nguyên nhân chính, trong đó có người đã theo đuổi gần hai mươi năm và cho biết họ sẽ theo tới chết. Chị Hương người An Giang cho biết:
“Cuộc sống ở đây quá vất vả, người ta thì khác nhưng mấy người dân oan này thì khổ dữ lắm không có gì để mà sống, ăn rau không chưa từng thấy. Dân oan này khổ quá rồi, sáng rau muống chiều rau muống!
Bởi vậy. Bây giờ cũng liều rồi. Bây giờ ai cũng khổ hết nằm vất vơ vất vưởng ngoài công viên. Nằm đó lang thang đó. Ăn uống thì rau muống chấm nước tương. Hùn nhau mua gạo về nấu. Tiền xe thì phải lo tiền đi tiền về.

Đất đai, tín ngưỡng

Căn cước của công dân Trại dân oan là những tờ giấy được dán lại thành khổ lớn trên ấy viết đủ thứ yêu cầu giải quyết đất đai bị trưng thu. Khi mệt họ bày những tấm giấy ấy bên vệ đường như đang bán hàng rong mà sản phẩm họ bày ra toàn những thứ đau lòng, rát ruột.
000_Hkg4836083-305
Hàng trăm người dân Hưng Yên tập trung biểu tình trước trụ sở Quốc Hội ở Hà Nội hôm 27-4-2011, phản đối chính quyền trưng thu đất đai xây dựng khu đô thị Ecopark.
Ngoài đất đai, việc bị bạc đãi, sách nhiễu vì niềm tin tôn giáo cũng làm cho hàng trăm người dân tộc thiểu số của các tỉnh miền Bắc và Tây nguyên kéo về Trại dân oan để góp thêm vào đó những tiếng kêu cứu giữa lòng thủ đô Hà Nội.
Trong vài ngày qua hơn 100 người H’Mông tập trung về đây. Anh Sự, Một dân oan từ Bắc Kạn cho biết:
“Tại vì chính quyền đến đàn áp bà con, đánh đập bà con tàn nhẫn quá. Không cho bà con đổi mới là theo phong tục mới không cho bà con chúng tôi có chỗ để ở nên bà con mới xuống đây kêu oan. Hiện tại thì có 108 người của bốn tỉnh về đây.”
Bà Lê Hiền Đức, người gần gũi với dân oan Tây nguyên kể:
“Dân oan ở tỉnh Dak nông hiện nay họ không còn tiền để đi ra nữa. Đất mất, tiền mất, nhà bị đốt. Người ta gọi là ba sạch: phá sạch, đốt sạch và những người nào ra ngăn cản thì bắt sạch! Bây giờ dân khổ quá rồi mà là dân tộc thiểu số M’ Nông.”
Chính quyền đối phó với Trại dân oan bằng nhiều cách. Bao vây bắt bớ nhưng do không thể kết tội nên khi được thả họ lại quay về trại. Rào chắn dày dặc chung quanh Mai Xuân Thưởng cũng không ngăn cản được những con người đã vào bước đường cùng: họ kéo nhau sang một trại dân oan khác có tên: vườn hoa Lý Tự Trọng.
Họ thường xuyên bị xua đuổi, nhất là những dịp lễ lạc. Nhiều nhất là bị bốc lên xe chở về quê nếu gần Hà Nội, nếu xa thì bị chở sang trại Đồng Dầu, Dục Tú, Đông Anh.
Trong khi tìm giải pháp mới để giải tán cư dân của Trại dân oan này, chính quyền đành phải chọn hạ sách: cắt nước. Giải pháp cắt nước không cho họ uống là cách chính quyền thực hiện hồi gần đây nhất, chị Ma Thị Hường, từ Cao Bằng cùng với 108 người bốn tỉnh phía Bắc khác cho biết:
“Em đòi hỏi quyền tự do tín ngưỡng thờ Đức Chúa Trời nhưng bọn em không có đạo bởi vì người ta cho là thay đổi như thế là không có nguồn gốc, làm như thế là phản động nên người ta không cho.
Về vườn hoa này được 7 ngày rồi ở đây ăn uống rất là khổ sở. Người ta thấy dân oan đi đông như vậy nên người ta còn cắt cả nước, không cho uống nước rất là khát nước. Thậm chí ngày hôm kia bà con nhịn nước cả ngày.”

Sống lang thang, chết âm thầm

Chúng tôi nói cho ngay nằm bờ nằm bụi, chị em hùn nhau chỉ có 10 ngàn cũng xong. Nấu cơm luộc rau chấm nước mắm hay nước tương. Cuộc sống tụi tôi rất là khổ.Tuy nhiên cũng được bà con ở Hà Nội người ta âm thầm giúp đỡ.
-Trần Thị Ngọc Anh
Có sống thì có chết, trại tập trung nào trên khắp thế giới cũng thế. Cụ Hà Thị Nhung, sinh năm 1937, cư ngụ tại thôn 6 xã Xuân Thành, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa khiếu kiện đất đai đã nhiều năm khi giành giật một tấm biểu ngữ với công an đã ngã ra chết. Bà là nhân khẩu bị gạch sổ đầu tiên của Trại dân oan Lý Tự Trọng.
Những ngày lễ tết thì sao? Khó thể tưởng tượng được rằng những con người khốn khổ này lại chấp nhận “ăn” Tết trong cảnh màn trời chiếu đất như vậy. Họ ngồi co ro trong giá rét của những ngày cuối đông trên chiếc ghế công viên nhìn dân Hà Nội ăn Tết. Hình ảnh của họ đã ám ảnh rất nhiều cư dân thủ đô và không ít người đã nhường cơm xẻ áo cho những người tù không có số này.
Dân oan, họ tội gì?
Họ chẳng khác mấy với tù nhân tuy nhiên người tù nào cũng được thăm nuôi trong khi đó công dân của Trại dân oan lại không có cái quyền này. Người tốt bụng Hà Nội phải đợi đến nửa đêm khi công an không còn quanh quẩn mới dám thăm nuôi những người mà họ không quen biết.
Chị Trần Thị Ngọc Anh, người dân oan có căn cước khiếu kiện gần hai mươi năm kể lại:
“Chúng tôi nói cho ngay nằm bờ nằm bụi, chị em hùn nhau chỉ có 10 ngàn cũng xong. Nấu cơm luộc rau chấm nước mắm hay nước tương. Cuộc sống tụi tôi rất là khổ.Tuy nhiên cũng được bà con ở Hà Nội người ta âm thầm giúp đỡ cho một gói mì tôm hay là âm thầm nửa đêm vì người ta không dám cho, tối 12 giờ người ta cho mỗi người một gói xôi, một cái bánh để sáng ăn lót dạ, từ chỗ đó tụi tôi lay lắt sống qua ngày.”
Không bị còng tay, không phòng giam và không người quản giáo, tuy nhiên họ không khác gì một tù nhân thứ thiệt vì ngồi trong công viên không biết đi đâu, nhìn ra bên ngoài chỉ để mơ ước nguyện vọng của mình được nhìn tới. Bao nhiêu năm kêu đòi công lý, ban đầu ước mơ được Thủ tướng xem xét: thất vọng, lại ước mơ đến Quốc hội, lại tiếp tục thất vọng. Mơ ước quay về quê với một lắng nghe tối thiểu không còn nữa trong tâm trạng chán chường, tuyệt vọng của những con người khốn khổ này.
Rất nhiều người lặng lẽ ngồi bên lề đường nhìn những con người như mình sinh hoạt bình thường với gia đình mà không khỏi cay đắng khi tự hỏi: họ có tội gì với nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam?

Tòa án "nương tay" với thanh niên yêu nước?

Vì sao tòa án “nương tay” với thanh niên yêu nước? 

000_Hkg8587979-305.jpg
Sinh viên Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên tại phiên xử sáng ngày 16/05/2013 ở Tòa án Nhân dân tỉnh Long An.
AFP PHOTO

Trong thời gian vừa qua, các bản án xét xử của tòa án Tỉnh Long An dành cho các thanh niên như Đinh Nguyên Kha, Đinh Nhật Uy và Nguyễn Phương Uyên được cho là chính quyền Hà Nội có động thái nhượng bộ với những người hoạt động và đấu tranh cho dân chủ ở Việt Nam.

Do quốc tế can thiệp?

Những hình ảnh về nụ cười hạnh phúc của Đinh Nhật Uy trong vòng tay bạn bè ngay sau khi phiên tòa xét xử tại tỉnh Long An kết thúc vào khoảng 12 giờ trưa ngày 29/10/13 được lan truyền khắp các trang mạng xã hội không chỉ làm ấm lòng cho người mẹ của anh, bà Nguyễn Thị Kim Liên, mà còn an ủi rất nhiều cho những gia đình có thân nhân đang trong vòng lao lý với tội danh “tù nhân lương tâm” ở khắp các trại giam từ Bắc tới Nam.
VN đang trên xu thế hòa nhập với thế giới, không thể tách rời với thế giới cho nên VN phải chấp nhận những yêu sách yêu cầu mà quốc tế đưa ra nếu không muốn đơn độc.
-Bạn Sơn
Trước đây không lâu, hồi tháng 8, những người quan tâm cũng chưa quên hình ảnh của nữ sinh Nguyễn Phương Uyên được phóng thích ngay tại tòa với bản án 3 năm tù treo cùng với bản án tù dành cho Đinh Nguyên Kha được giảm nhẹ hơn so với bản án sơ thẩm. Những thanh niên này lên tiếng trước tòa rằng mình vô tội vì đã đấu tranh cho chủ quyền lãnh thổ Việt Nam do sự xâm lược của Trung Quốc, đấu tranh cho quyền lợi của người dân bị xâm phạm và đấu tranh chống tham nhũng, chống tiêu cực. Mặc dù vậy, họ vẫn phải nhận lãnh những bản án mà công luận cho là “tùy tiện” và “phi lý”. Thế nhưng, với những bản án trong thời gian ngắn 2 tháng vừa qua, nhiều người cho rằng Nhà nước Việt Nam tỏ dấu “nhẹ tay” hơn với những người bất đồng chính kiến và đấu tranh dân chủ ôn hòa ở trong nước. Bạn Đinh Công Thủ, 1 bạn trẻ ở Saigon cho biết cảm nghĩ của mình:
“Theo cách nhìn của em, những bản án vô lý đó, không có tội gì mà họ buộc tội thì miễn bàn. Nhưng theo em nghĩ kết quả của những bản án xét xử vừa rồi thì đó là chính quyền Việt Nam bắt đầu nhượng bộ trước phong trào dân chủ, phong trào tự do ngôn luận hay đòi quyền con người”.
dinh-nhat-uy-250.jpg
Anh Đinh Nhật Uy, sau khi rời khỏi tòa án vào ngày 29 tháng 10 năm 2013. Photo by Bạch Hồng Quyền.
Vì sao Nhà nước Việt Nam lại tỏ dấu nhượng bộ như nhận xét của người bạn trẻ vừa nêu? Có phải những người điều hành quốc gia bắt đầu thay đổi cách nhìn đối với những người góp tiếng nói dù khác biệt cho một Việt Nam được tiến bộ văn minh hơn? Hay có phải vì chính quyền Hà Nội phải nhượng bộ trong thời gian ứng cử Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2013-2016? Hay còn vì nguyên nhân nào khác nữa? Bạn Khúc Thừa Sơn ở Đà Nẵng cho đài ACTD biết một trong những tác động tích cực lên Nhà nước Việt Nam hiện nay là nhờ vào sự can thiệp của các tổ chức quốc tế như Tổ chức Nhân quyền Quốc tế, Tổ chức Ân xá Quốc tế, Tổ chức Phóng viên không Biên giới cũng như của Chính phủ Hoa Kỳ... Bạn Sơn nói:
“Họ quan tâm nhiều lắm. Hầu như mỗi một động thái, một hành động mà chính quyền Việt Nam áp đặt lên người dân Việt Nam đặc biệt trong công cuộc đấu tranh của những bạn trẻ vì nước Việt Nam thì hầu như tất cả các cơ quan quốc tế ngay lập tức đồng loạt lên tiếng ủng hộ, bênh vực cho các bạn trẻ ngay. Đặc biệt là tiếng nói của Hoa Kỳ gây áp lực lên chính quyền Việt Nam một cách mạnh mẽ. Trong thời buổi này, Việt Nam đang trên xu thế hòa nhập với thế giới, không thể tách rời với thế giới cho nên Việt Nam phải chấp nhận những yêu sách yêu cầu mà quốc tế đưa ra nếu không muốn đơn độc”.

Bất chấp luật pháp

Bên cạnh những ý kiến cho là Nhà nước Việt Nam tỏ dấu hiệu nhượng bộ thì vẫn còn có ý kiến không đồng tình. Trao đổi với Hòa Ái vào tối 30/10, ông JB Nguyễn Hữu Vinh nhận thấy Nhà nước Việt Nam khi hành xử thế này lúc hành xử ngược lại. Ông JB Nguyễn Hữu Vinh nói chính quyền Hà Nội bất chấp luật pháp, bất chấp những nguyên tắc tố tụng để tuyên án đối với những người đấu tranh, những người bất đồng chính kiến mà Nhà nước không thích:
Một khi nhà nước không hành xử theo 1 nguyên tắc pháp luật nhất định, không hành xử theo những định chế của pháp luật quy định đối với công dân thì Nhà nước đó thể hiện sự bất lực của mình.
-JB Nguyễn Hữu Vinh
“Tôi nghĩ rằng qua phiên tòa đối với Đinh Nhật Uy thì bản án đó rất nặng nề chứ không thể nói rằng nhẹ hơn được. Tức là vấn đề không phải ở chỗ người này phạm tội gì, người kia phạm tội gì hoặc chiếu theo điều luật nào phải vào khung hình phạt nào, phải xử sự như thế nào mà đó chỉ đơn giản vì người đó là ai và thái độ của người đó như thế nào bởi vì Nhà nước có thích họ hay không để mà hành xử. Một khi nhà nước không hành xử theo 1 nguyên tắc pháp luật nhất định, không hành xử theo những định chế của pháp luật quy định đối với công dân thì Nhà nước đó thể hiện sự bất lực của mình. Do vậy, chuyện tại sao các bạn trẻ được xử sự như thế này, luật sư Lê Quốc Quân được xử sự như thế kia thì rất đơn giản vì luật sư Lê Quốc Quân không được Nhà nước thích hoặc ghét nhiều hơn hoặc cảm thấy nguy hiểm cho họ hơn so với những người trẻ. Nhưng điều đó nói lên cách hành xử như thế nào thì cho thấy bản chất của sự việc”.
Trong khi nhiều người tin vào cơ sở Nhà nước Việt Nam không có lựa chọn nào khác hơn là  thay đổi tình trạng vi phạm nhân quyền đối với người dân nhằm mục đích ứng cử Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2013-2016 cũng như hòa nhập vào cộng đồng thế giới thì vẫn còn nhiều suy nghĩ e ngại Việt Nam chẳng có thay đổi gì theo như lời kể trước đây của nhà văn Huỳnh Ngọc Tuấn khi lên tiếng Nhà nước vi phạm điều 19 của công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị và điều 19 của tuyên ngôn quốc tế nhân quyền đối với nhà văn thì lại nhận được câu trả lời từ trưởng đoàn thanh tra, ông Trần Minh Thái rằng “chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam có tham gia công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị nhưng chúng tôi không trực tiếp áp dụng công ước quốc tế đó vào sinh hoạt của người dân”.
Qua những chia sẻ của các bạn trẻ ở trong nước với đài ACTD, họ cho biết dù Nhà nước Việt Nam có thay đổi cách hành xử đối với những người hoạt động cho quyền con người và tự do ngôn luận tại Việt Nam hay không thì niềm tin vào phong trào đấu tranh cho dân chủ và công bằng để đất nước Việt Nam được tốt đẹp hơn trong tương lai không bao giờ bị dập tắt. Vì đây là một cuộc đấu tranh chính nghĩa cho dân tộc nên không có bất cứ điều gì có thể ngăn cản được sự lan tỏa trong mỗi tấm lòng con dân đất Việt.

Saturday, 26 October 2013

Chuyện dài ra đảng và đa đảng

Chuyện dài ra đảng và đa đảng (phần 1)

Nguyễn Minh Cần
Hình ảnh Cải cách ruộng đất và Tòa án Nhân Dân của ĐCS Việt Nam và hầu hết các người có ruộng đất đưa ra xử đều bị đánh đến chết. Ảnh tư liệu
Hình ảnh Cải cách ruộng đất và Tòa án Nhân Dân của ĐCS Việt Nam, hầu hết các người có ruộng đất đưa ra xử đều bị đánh đến chết. Ảnh tư liệu
ảnh Tư liệu
Gần đây, trong nước lại rộ lên những lời bàn tán về chuyện ra Đảng và chuyện đa đảng, nhất là sau khi bài “Suy nghĩ trong những ngày nằm bnh” của Luật gia Lê Hiếu Đằng và bài “Phá xiềng” của nhà báo Hồ Ngọc Nhuận được tung ra.
Người viết những dòng này hoan nghênh hai tác giả vừa nói trên đã gióng lên lời kêu gọi các đảng viên cộng sản hãy “tuyên bố tập thể ra khỏi Ðảng và thành lập một Ðảng mới”, Đảng Xã hội-dân chủ. Đáng lẽ, lời kêu gọi thức thời đó phải được tung ra từ rất lâu cơ! Nhưng chẳng sao cả, chậm còn hơn không!
Hãy can đảm xét lại…
Để đáp ứng lời kêu gọi thức thời đó của hai ông, thiết nghĩ các đảng viên cộng sản có tư duy độc lập đang còn phân vân cần phải có gan “xét lại” và nhận thức rõ thực trạng của hệ thống chính trị nước ta dưới sự thống trị độc tôn của Đảng cộng sản Việt Nam để xác định cho mình một thái độ dứt khoát với tinh thần trách nhiệm công dân cao.
Để các bạn hiểu rõ tôi hơn khi đọc những dòng trên, tôi xin thưa với các bạn rằng, khi mới 18 tuổi, tôi đã gia nhập Đảng cộng sản Đông Dương (1946), và cũng đã từng vào sinh ra tử nhiều năm trong cuộc kháng chiến chống Pháp và từng gánh vác nhiều trách nhiệm quan trọng trong Đảng... Đến khi có những ý kiến bất đồng với ban lãnh đạo Đảng hồi cuối những năm 50 đầu những năm 60, tôi cùng với một số cán bộ cao cấp và trung cấp của Đảng bị quy “tội” “xét lại – chống Đảng”. Khi bị truy bức mạnh thì tôi đã rời bỏ Đảng cộng sản (ĐCS) vào lúc 36 tuổi (1964) lúc đang ở nước ngoài.
Suy cho cùng, cái “tội” mà các vị lãnh đạo ĐCS hồi đó đã quy, không biết những người khác nhận thức thế nào, còn đối với riêng tôi thì tôi cho là đúng! Tôi không phủ nhận! Đúng là tôi đã phạm “tội” “xét lại”! Chắc nhiều bạn đã sống cái thời cực kỳ ác liệt những năm 50, 60 thế kỷ trước đều biết cái “tội” “xét lại” hồi đó là đáng sợ lắm, vì Đảng coi “tội” ấy ngang với tội “phản động”, “phản đảng”, “phản quốc”! Thời đó các vị lãnh đạo đánh đồng (và đánh tráo) Đảng với Tổ quốc. Tôi nhận “tội”  “xét lại”, nhưng quyết không nhận “tội” “phản quốc”, bởi lẽ tôi “xét lại” và phát biểu ý kiến với Đảng vì tôi yêu nước, thương dân, vì tôi không muốn Đảng đưa Đất nước và Nhân dân vào những thảm họa.
Làm sao mà không “xét lại” được, khi chính mắt mình thấy hằng trăm, hằng nghìn người dân ở nông thôn bị bắn giết oan uổng trong cải cách ruộng đất? khi thấy hàng nghìn gia đình bị điêu đứng trong cuộc cải tạo công thương nghiệp và thủ công nghiệp ở thành phố? khi thấy cả xã hội bị nghẹt thở vì chính sách quản lý hộ khẩu ngặt nghèo, vì các quyền công dân, quyền con người, các quyền tự do dân chủ bị xóa bỏ? Vậy thì tôi đã “xét lại” gì? Tôi “xét lại” đường lối của Đảng, nhưng trước hết, tôi “xét lại” chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa Lenin, chủ nghĩa Stalin, chủ nghĩa Mao Trạch Đông mà Đảng dùng “làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động”. Cuối cùng, tôi đã phủ nhận những thứ đó. Vì, sau khi đã kiểm nghiệm qua thực tiễn của Đảng và Đất nước Việt Nam, cũng như kiểm nghiệm qua thực tiễn của Đảng và Đất nước đã khai sinh ra phong trào cộng sản quốc tế là Liên Xô, sau khi đã nghiên cứu kỹ càng về mặt lý luận những thứ chủ nghĩa đó, tôi nhận thức sâu sắc rằng những chủ nghĩa đó rất sai lầm và rất nguy hại cho các dân tộc đã áp dụng chúng, kể cả cho dân tộc Việt Nam, và cho toàn nhân loại. Tôi nghĩ rằng, không phải ngẫu nhiên mà Nghị viện châu Âu đã ra Nghị quyết 1481 (2006) lên án chủ nghĩa cộng sản và đồng nhất chủ nghĩa này với tội ác chống lại loài người.
Nhà báo Hồ Ngọc Nhuận
Nhà báo Hồ Ngọc Nhuận
Nói cụ thể hơn: cú đẩy đầu tiên làm tôi phân vân về đường lối của Đảng là những sai lầm nghiêm trọng của cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc (1953-1956) và thái độ quanh co, giả dối của các lãnh tụ của Đảng trước những sai lầm đó. Còn cú đẩy mạnh nhất là “Nghị quyết 9” (tháng 12 năm 1963) đánh dấu một bước ngoặt căn bản của Đảng cộng sản Việt Nam: đi theo con đường của Đảng cộng sản Trung Quốc,1 tức là đi theo con đường của chủ nghĩa Mao, một thứ chủ nghĩa phiêu lưu vô cùng nguy hại. Từ đó, tôi thấy phải “xét lại” con đường của ĐCSVN, kể từ việc Đảng đưa miền Bắc “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” đến việc ban lãnh đạo Đảng phát động cuộc chiến tranh Bắc Nam hồi cuối thập niên 50 thế kỷ trước.
Tôi cũng không phủ nhận cái “tội” “chống Đảng”, vì khi tôi nghiệm thấy những việc làm thực tế của các lãnh tụ Đảng cộng sản Việt Nam (khi tôi sống ở Việt Nam) và của các lãnh tụ Đảng cộng sản Liên Xô (khi tôi sống ở Nga) thì tôi thấy chế độ chính trị mà các ĐCS đã xây dựng lên để thống trị người dân ở Liên Xô, ở Việt Nam, ở một số nước châu Âu, châu Á, châu Mỹ đều là những chế độ độc tài toàn trị bóp nghẹt mọi quyền tự do của người dân, mọi quyền con người, kìm hãm sự phát triển của xã hội và tạo ra mọi tệ nạn xã hội trầm trọng, như sự dối trá, lừa bịp có hệ thống, nạn tham nhũng tràn lan, v.v... vì thế tôi nhận thức rằng cần phải chống những đảng độc tài toàn trị như thế để bênh vực cho người dân.
Và số phận dun dủi tôi là một người Việt Nam đã tham gia hai cuộc Cách mạng Tháng Tám trong đời mình: cuộc Cách mạng Tháng Tám (19/8/1945) ở Việt Nam lúc tôi mới 17 tuổi, vì ngây thơ về chính trị tôi đã vô ý thức đưa Đảng cộng sản Việt Nam lên nắm chính quyền thống trị Đất nước, và cuộc Cách mạng Tháng Tám (19/8/1991) ở Nga lúc tôi đã 63 tuổi và là thành viên của tổ chức “Nước Nga Dân chủ”, vì hồi đó tôi nhận thức rõ phải đấu tranh chống lại và hạ bệ Đảng cộng sản Liên Xô xuống để dân Nga và các dân tộc trong Liên Bang Xô Viết được tự do và tiến theo con đường dân chủ. Hành động đó của tôi rõ ràng là chống ĐCS nhưng tôi không hề cho rằng đó là một “tội”, mà đó là một việc làm chính đáng của một người trung thực có ý thức và thức thời.
Tôi phải kể rõ ràng như vậy để các đảng viên cộng sản còn ở trong Đảng thấy rằng có lắm khi việc “xét lại” dù rất khó khăn nhưng lại là rất cần thiết. Nhận thức của con người là một quá trình liên tục, có khi phải đấu tranh, dằn vặt rất gian khổ, phải kiểm nghiệm, lật đi lật lại nhận thức cũ của mình, vì chân lý  không phải một lúc mà ta đã nhận thức được ngay. Nên đừng e ngại khi thấy cần phải “xét lại” những điều trước đây mình đã tưởng nhầm là chân lý, là lý tưởng. Viết đến đây, chúng tôi xin phép dẫn ra một câu rất sâu sắc của Vaclav Havel, nhà văn, nhà soạn kịch và chiến sĩ dân chủ Czechoslovakia: “Chúng ta sống trong những điều kiện ép buộc con người vươn lên trên sự phá sản của lý tưởng”2. Đúng như thế, ngày nay, rất nhiều đảng viên ở nhiều ĐCS trên thế giới sau khi “xét lại” và nhận thức rõ sự lầm lạc của mình cũng đã vươn lên trên sự phá sản của lý tưởng” và từ bỏ ĐCS. Tôi tin rằng trong số đó không ít người đã phải trải qua những dằn vặt đau đớn giống như tôi. Thế mà họ đã dứt khoát. Vì thế, ở nhiều nước, trước đây ĐCS đông đảo có đến hàng triệu đảng viên nay đã teo lại như “miếng da lừa”, thậm chí ở nhiều nước không còn ĐCS nữa. Đó là một thực tế cần phải thấy!
Luật gia Lê Hiếu Đằng
Luật gia Lê Hiếu Đằng
Tôi nghĩ răng rằng, thời điểm này hơn lúc nào hết - khi ĐCSVN đã hoàn toàn biến chất, đang bị khủng hoảng trầm trọng về mặt tư tưởng, về đường lối, về cán bộ, khi tổ chức của Đảng - nhất là ở thượng tầng - chia rẽ nặng nề, đấu đá nhau vì quyền lợi; khi ĐCS đã đưa Đất nước vào cuộc tổng khủng hoảng toàn diện, cả về kinh tế, tài chính, cả về giáo dục, y tế, đạo đức, vào tình trạng xã hội vô cùng tồi tệ - thì chính lúc này, những người cộng sản trung thực còn ở lại trong ĐCSVN hãy nên nghe lời kêu gọi thức thời của hai đảng viên CS kỳ cựu Lê Hiếu Đằng và Hồ Ngọc Nhuận, mà can đảm “xét lại” và quyết định một thái độ rõ ràng, dứt khoát, đầy trách nhiệm công dân. Trước tình trạng Đất nước ngày nay, lẽ nào những con người có lương tri lại có thể thờ ơ, vô cảm?
Thực chất của chế độ hiện nay
Những điều tôi sẽ trình bày sau đây về thực chất cái chế độ mà ĐCSVN đã dựng lên trên Đất nước ta là một chế độ độc tài toàn trị CS cực kỳ khắc nghiệt, có thể nhiều bạn đã biết mà không dám nói ra, nhưng tôi xin phép được nói một lần nữa, đặc biệt cho thế hệ trẻ chưa từng trải lắm được thấu rõ.
Mọi người trung thực đều biết: ngay sau khi ĐCSVN cướp được chính quyền hồi tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các lãnh tụ CS khác liền bắt tay xây dựng chế độ toàn trị (totalitarisme), trong đó ĐCS “độc quyền lãnh đạo” (từ ngữ của Lenin – hegemonia), tức là quyền lực của ĐCS độc tôn thống trị đất nước và dân tộc. Nhưng hồi đó, thế và lực của ĐCS còn yếu, nên các lãnh tụ CS phải dùng những thủ đoạn khéo léo che giấu cái chất CS của chế độ. Thậm chí có lúc họ còn giả vờ giải tán ĐCS (11/1946) và cho ra đời hai đảng “bỏ túi” là Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội để làm cảnh, hòng đánh lừa dư luận trong nước và thế giới. Họ đặt tên nước là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và có khi phải lập “Chính phủ liên hiệp”, mời những quan chức, vài đại biểu các đảng khác, vài nhân sĩ có uy tín dưới chế độ cũ đứng đầu các bộ quan trọng trong chính phủ (như nội vụ, ngoại giao, văn hóa...), nhưng những vị này chỉ “làm vì” chẳng có quyền hành thực tế, mà mọi thực quyền đều nằm trong tay các cán bộ CS.
Trái hẳn với những lời kêu gọi tốt đẹp của Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc, ngay từ khi mới lên cầm quyền, các lãnh tụ CS đã cho thủ tiêu bí mật nhiều lãnh tụ các đảng yêu nước không CS (như Quốc Dân Đảng, Đảng Đại Việt, v.v...), ngay cả những lãnh tụ đảng cùng ý thức hệ với họ, nhưng không CS (những người trốt-skít) cũng bị giết. Nhiều vị trong hàng giáo phẩm cao cấp, các chức sắc của các tôn giáo bị cô lập, bị bắt đi tù, bị ám hại (như Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ...). Ở các địa phương, nhiều người người đã làm việc dưới chế độ cũ bị thủ tiêu hoặc bị tù đày dài hạn không xét xử.
Song song với việc xóa bỏ các hội đoàn đã có từ trước, như tổ chức hướng đạo, các hội ái hữu, các nghiệp đoàn, các tổ chức tôn giáo, các hội từ thiện... ĐCS ra sức phát triển các tổ chức  quần chúng của họ trong mọi giới, công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, thiếu niên, nhi đồng... Do vậy, trong một thời gian ngắn, ĐCS đã nắm được toàn bộ xã hội VN trong tay, loại trừ được các đảng phái và tổ chức có thể cạnh tranh quyền lực với họ.
Một người bán hàng rong trên đường phố Hà Nội. AFP
Một người bán hàng rong trên đường phố Hà Nội. AFP
Đến khi cuộc kháng chiến bắt đầu, cơ quan đầu não của ĐCS phải rút lên chiến khu, thì ở các vùng gọi là “tự do” (như một số tỉnh ở Khu Bốn, Khu Năm, các vùng chưa bị Pháp chiếm ở những nơi khác), các lãnh tụ CS càng siết chặt chế độ toàn trị của họ. Ở các vùng đó, mọi quyền tự do của dân chúng bị xóa bỏ, lấy lý do vì đang trong thời chiến.
Đến năm 1949, khi ĐCS Trung Quốc nắm được chính quyền trên toàn Hoa lục, các lãnh tụ CSVN có được “chỗ dựa vững chắc như dãy Hy-mã-lạp-sơn” (lời ông Trường Chinh, Tổng bí thư ĐCS hồi đó). Và đúng như vậy, dựa vào sự ủng hộ to lớn về mọi mặt của ĐCSTQ, nhất là về mặt quân sự, Trung Cộng đã giúp ĐCSVN giành được thắng lợi trên nhiều chiến dịch, bắt đầu từ chiến dịch Biên giới (1950) cho đến chiến dịch Điện Biên Phủ (1954) dẫn đến việc ký Hiệp định Genève chia nước VN thành hai miền: Bắc và Nam.
Tiếp nhận miền Bắc, thế và lực của ĐCS đã mạnh hơn nhờ sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Cộng, ĐCSVN công khai ra mắt dân chúng khoác cái tên mới là Đảng Lao động VN (1951), công nhiên tuyên bố xây dựng chủ nghĩa xã hội và thực hiện cái họ gọi là “chuyên chính dân chủ nhân dân” mà thực chất là chuyên chính vô sản. Ông Hồ Chí Minh và các lãnh tụ CS khác càng siết chặt hơn nữa sự kiểm soát toàn diện cuộc sống của dân chúng, từ kinh tế, đi lại, lao động cho đến tư tưởng, tín ngưỡng. Rập theo khuôn mẫu của Liên Xô và Trung Cộng, trong thời kỳ này ĐCSVN đã thực hiện chế độ quản lý hộ khẩu rất ngặt nghèo, làm các cuộc “chỉnh huấn”, “phóng tay phát động cải cách ruộng đất” và dựng lên “vụ án Nhân Văn Giai Phẩm”, “vụ án Xét Lại Chống Đảng”... để đàn áp giới trí thức dân chủ trong và ngoài Đảng, gieo rắc sự khiếp sợ trong dân chúng, đè bẹp mọi ý hướng không đồng tình với ĐCS. Trong thời kỳ này, các quyền tự do dân chủ và quyền con người bị chà đạp vô cùng tàn bạo, nhiều trí thức, sinh viên, cán bộ, đảng viên bị cầm tù lâu dài và hàng chục ngàn người dưới chế độ cũ bị bắt nhốt vào các “trại cải tạo” theo nghị quyết 49/NQ/TVQH (20/06/1961) của Thường vụ Quốc hội do ông Trường Chinh ký.
Dựa vào sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô và Trung Cộng, các lãnh tụ CSVN đã tiến  hành cuộc chiến tranh Bắc Nam dưới chiêu bài “giải phóng miền Nam”. Biết bao xương máu của quân và dân cả hai miền Bắc và Nam đã đổ ra! Biết bao nhiêu triệu thanh niên, nam nữ của cả hai miền Bắc và Nam đã chết tức tưởi trong cuộc chiến tranh huynh đệ này! Đến khi chiếm được miền Nam và xóa bỏ chế độ Việt Nam Cộng hòa, các lãnh tụ CS liền công nhiên đặt cả nước dưới chế độ độc tài toàn trị của ĐCS; đưa khoảng 200 ngàn quân nhân và viên chức dưới chế độ cũ vào tù, có tên là “trại cải tạo”; ngang nhiên “luật hóa” độc quyền ĐCS thống trị đất nước bằng điều 4 Hiến pháp (1980); công nhiên tuyên bố “đi theo con đường Cách mạng tháng Mười Nga”; tuyên bố “nắm vững chuyên chính vô sản” để xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước; công khai lấy lại tên ĐCSVN; còn tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì bị xóa bỏ mà đổi thành Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Hai “đảng anh em” Dân chủ và Xã hội bị xóa sổ ngay và chế độ chính trị hiển nhiên trở thành “độc đảng” tuyệt đối (còn trước đây cũng là “độc đảng” nhưng có che đậy bằng “chiếc lá nho” hai “đảng anh em”).
Kể từ năm 1930, các lãnh tụ CS luôn luôn dùng khẩu hiệu “người cày có ruộng” để lừa mị, lôi kéo nông dân theo ĐCS thì đến năm 1980, họ đưa ra Hiến pháp mới với điều 17 (trong Hiến pháp tiếp sau là điều 19) xóa bỏ quyền tư hữu đất đai của người dân và tuyên bố tất cả ruộng đất chuyển thành cái gọi là “sở hữu toàn dân”, thực tế là tước đoạt toàn bộ ruộng đất của người dân, chủ yếu là của nông dân, biến thành sở hữu của ĐCS để cho cán bộ CS tha hồ thao túng. Đến lúc này thì Tổng bí thư ĐCS nghiễm nhiên đóng vai nguyên thủ quốc gia dù vẫn còn ngôi vị Chủ tịch nước; các chỉ thị, nghị quyết của ĐCS có hiệu lực như các đạo luật; còn Quốc hội do “Đảng cử dân bầu” và các cơ quan nhà nước chỉ là bù nhìn của ĐCS, bình phong che đậy chế độ chuyên chế.
Tóm lại, chế độ độc tài toàn trị mà ĐCSVN dựng lên đã 68 năm nay là một cơ chế chính trị bao trùm tất cả và thâm nhập vào mọi mặt hoạt động của xã hội, nó cho phép các lãnh tụ CS quản lý và can thiệp sâu vào đời sống của công dân. Dưới chế độ này, người dân hoàn toàn bị mất quyền tự do, bị nô dịch hóa một cách rất tinh vi, ngay cả suy nghĩ, phát biểu ý kiến, và đời sống nội tâm cũng phải theo chỉ đạo của ĐCS. Trong nước, chỉ có một giai cấp được hưởng tự do và toàn quyền thâu tóm các quyền lợi, đó là tầng lớp các quan chức CS. Bản thân họ và gia đình họ nghiễm nhiên trở thành những nhà tư bản đỏ, những tỷ phú, những địa chủ cường hào như thời xưa. Họ thật sự là giai cấp thống trị trong xã hội.Trong bài “Nghịch lý” Thái Bình - “Nghịch lý’” Việt Nam” viết ngày 15/5/1998 nhân dịp kỷ niệm lần thứ nhất cuộc nổi dậy của nông dân Thái Bình, chúng tôi đã đi đến kết luận: “...Những ‘nghịch lý’ đó nói lên điều gì? Chúng nói lên rằng: cuộc cách mạng nhân dân đã bị phản bội và đại chúng tham gia cuộc cách mạng đó đã bị phản bội.”... “Chính tập đoàn thống trị cùng với giai cấp quan liêu cầm quyền này đã phản bội cuộc cách mạng nhân dân..
Chế độ độc tài toàn trị của ĐCS đã đem lại vô vàn hậu quả cực kỳ thảm khốc cho đất nước và nhân dân ta: hàng trăm lãnh tụ và cán bộ chủ chốt của các đảng yêu nước không CS đã bị giết hại, trên 172 ngàn người đã là nạn nhân oan uổng trong cuộc cải cách ruộng đất đẵm máu ở miền Bắc, khoảng 5-6 triệu quân nhân và thường dân của cả hai miền đã bỏ mạng trong cuộc chiến tranh Bắc-Nam, hàng trăm ngàn người bị rục xác trong ngục tù CS, tình trạng chia rẽ, hận thù trong dân chúng vô cùng trầm trọng... Do đường lối, chính sách “xây dựng chủ nghĩa xã hội” mà ĐCS đã tàn phá nền kinh tế của đất nước, đẩy lùi nền văn hóa, giáo dục của dân tộc, làm cho nước ta bị lạc hậu gấp nhiều lần so với các nước láng giềng mà trước năm 1945 trình độ phát triển còn thấp hơn nước ta. Chế độ độc tài toàn trị đã tạo nên một xã hội đầy bất công, đầy tham nhũng, đầy tội ác; đạo đức con người băng hoại nặng nề không tưởng tượng nổi. Đặc biệt cần nói thêm, chế độ độc tài toàn trị của ĐCS đã tạo nên một lớp người khiếp sợ, khuất phục cường quyền, vô cảm, ích kỷ và... độc ác.
Một hậu quả cực kỳ nguy hiểm nữa mà chế độ độc tài toàn trị do tập đoàn cầm quyền CSVN đã gây ra cho đất nước và dân tộc ta là: do “chịu ơn sâu nặng” ĐCSTQ ngay từ thời những năm 1930, ông Hồ Chí Minh cùng các lãnh tụ CS đã mù quáng, không thấy rõ mưu đồ của Trung Cộng muốn xâm chiếm nước ta, nên có một thời gian dài họ đã mê muội thuần phục Mao Trạch Đông và các lãnh tụ Trung Cộng, đến nỗi để Trung Cộng lấn dần lãnh thổ của Tổ quốc ta, và thậm chí Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có công hàm (14.09.1958) “ghi nhận và tán thành” Công bố của Chính phủ Trung Quốc ngày 04.09.1958, thực tế là Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã gián tiếp phủ nhận chủ quyền của ta trên quần đảo Hoàng Sa! Còn khi Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới bị sụp đổ thảm hại, lãnh đạo ĐCSVN đã vội vã bay đến Thành Đô (09.1990) để quỵ luỵ tìm chỗ dựa mới, hòng cứu ĐCS, cứu chế độ toàn trị của Đảng, mặc dù cách đấy không lâu, hồi năm 1979, Trung Quốc đã tiến hành một cuộc chiến tranh khốc liệt tàn phá nhiều tỉnh phía Bắc Việt Nam và lấn chiếm lãnh thổ của ta ở gần biên giới.
Từ đó, tập đoàn cầm quyền VN từng bước nhân nhượng TQ về lãnh thổ và lãnh hải nước ta (Hiệp ước về biên giới trên đất liền 30.12,1999, Hiệp ước phân định lãnh hải 25,12.2000), tự nguyện quàng vào cổ dây thòng lọng “16 chữ vàng” và “4 tốt” để bè lũ Trung Cộng thực hiện cuộc xâm lăng “mềm”: Nhà cầm quyền VN đã để các đoàn lao động TQ xâm nhập sâu vào các nơi hiểm yếu trong nội địa nước ta, cho thuê dài hạn rừng vùng biên giới, để kinh tế TQ tràn ngập thị trường VN, văn hóa TQ tràn ngập đất nước bằng phim ảnh, sách báo, các trường dạy Hoa ngữ, v.v... tạo ra nguy cơ mất nước rất hiển nhiên. Mới đây, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đến chầu Thiên triều đỏ, một bản Tuyên bố chung và 10 văn kiện quan trọng đã được ký chóng vánh trong một ngày 21.06.2013. Đây là sự khuất phục toàn diện vô cùng nhục nhã của tập đoàn thống trị CSVN trước kẻ thù của Dân tộc là bọn “đại bá” Trung Cộng.
Trước hiểm họa mất nước, các công dân yêu nước đã đứng lên đấu tranh chống lại kẻ xâm lược thì lại bị ĐCS đàn áp rất tàn bạo, nhiều người bị tống vào tù ngục. Như vậy, trước mắt người dân VN, tập đoàn thống trị CSVN đã hiện nguyên hình là những tên “thái thú” của Trung Cộng. Có thể kết luận rằng chừng nào còn tồn tại chế độ độc tài toàn trị của ĐCSVN thì hiểm họa mất Tổ quốc, mất Dân tộc vẫn còn tồn tại.
Các đảng viên cộng sản trung thực có tư duy độc lập cần sớm “xét lại” để tỉnh thức mà nhận rõ chế độ độc tài đảng trị của ĐCS áp đặt cho Dân tộc ta đã trên 68 năm. Phải nhận rõ ĐCSVN đã và đang là khối u ác tính trên thân thể Dân tộc ta, đang là trở lực lớn nhất trên con đường tiến lên của xã hội Việt Nam, của Dân tộc Việt Nam, đã và đang là trở lực lớn nhất cho cuộc đấu tranh để bảo vệ chủ quyền của Đất nước, gìn giữ non sông yêu quý. Cần nhận rõ như vậy để tự mình xác định dứt khoát thái độ của một công dân yêu nước, thương dân.
Chia tay đau đớn nhưng…
Vẫn biết rằng mọi cuộc chia tay thường là đau buồn, khó khăn, bịn rịn. Điều này, đối với cá nhân tôi và hai người bạn cùng cảnh ngộ là Thượng tá Đỗ Văn Doãn, nguyên Tổng biên tập báo Quân Đội Nhân Dân và Đại tá Lê Vinh Quốc, nguyên phó Chính ủy Quân khu III thì lại càng thấm thía. Cuộc chia taycủa chúng tôi với ĐCS hồi năm 1964 thật là vô cùng đau đớn, vì, đối với chúng tôi, cuộc chia tay đó lại gắn liền với việc chia lìa vợ con mà chúng tôi rất yêu quý, chia lìa bà con, họ hàng, xa lìa Tổ quốc, quê hương! Biết bao đêm thao thức, nghĩ suy... Biết bao lần chúng tôi đã bàn đi tính lại với nhau, trao đổi ý kiến với các bạn cùng tư tưởng, như anh Trần Minh Việt, cựu phó Bí thư Thành ủy Hà Nội, anh Nguyễn Kiến Giang, cựu phó Giám đốc Nhà xuất bản Sự Thật... Những người bạn này khi về nước thì bị bắt vào tù giam giữ nhiều năm, khi thả ra anh Minh Việt kiệt sức qua đời, còn anh Kiến Giang thì sống vất vưởng trong vòng kiềm tỏa ngặt nghèo cho đến nay.
Nhiều bạn bè đã khuyên chúng tôi: thôi cứ “đánh bài” “ngậm miệng qua thời”, cứ “hoan hô sự anh minh của Đảng”, “chúc tụng muôn năm lãnh tụ” cho xong chuyện để được gần vợ gần con, giữ lấy cái chức vụ đã có, v.v... Chúng tôi không nghe, quyết tâm ở lại và rời bỏ Đảng mà chúng tôi đã phục vụ 20 năm trời. Chúng tôi ở lại nước ngoài chẳng phải để hưởng thụ, nằm im... Nhưng những điều dự định làm thì...  than ôi, mấy tháng sau, một cuộc đảo chính cung đình (1964) nổ ra đã thay đổi người lãnh đạo tối cao của nước bạn... Thế là mọi dự định tan thành mây khói! Khoảng 40 anh chị em sinh viên, nghiên cứu sinh hồi đó không về nước, rất thất vọng... cuối cùng, kẻ trước người sau, nhiều người rồi cũng lần lượt hồi hương. Văn Doãn, người bạn thân của tôi, chán nản nhảy từ tầng lầu 6 đập đầu xuống lề đường tự tử! Tôi đau đớn vô cùng, có lúc gần như điên loạn, một thời gian lâu mới trấn tĩnh được để lao vào những việc làm có ích: tôi say mê nghiên cứu, sinh hoạt tâm linh, bắt tay vào việc biên soạn từ điển, v.v... Đấy, tôi kể lại chuyện đời mình để thấy sự chia tay với Đảng thật là đau đớn, nó kéo theo nhiều thiệt thòi cho gia đình, cho anh em, cho bà con, bạn bè...
Nhưng, phải nói thật lòng rằng khi tâm hồn tôi đã bình tĩnh lại, nghĩ cho cùng, việc rời bỏ ĐCS đã đem lại cho tôi nhiều điều tốt.
Trước hết, tôi hoàn toàn được tự do về mặt tư tưởng và tinh thần, tôi thật sự làm chủ cái đầu, cái lưỡi và cây bút của tôi.  Đó là điều sung sướng nhất đối với tôi! Tuy rằng với cái thẻ cư trú của một người tị nạn chính trị ở Liên Xô, tôi không được hoàn toàn có tự do về những mặt khác, chẳng hạn về việc đi lại: cũng như các công dân bình thường khác của Liên Xô hồi đó, tôi không được đi ra nước ngoài... Nhưng tự do tư tưởng và tinh thần, tự do nghiên cứu, viết lách đối với tôi là điều quý nhất.
Thứ hai, nếu tôi không thoát ly khỏi ĐCS mà ngoan ngoãn trở về nước thì rất có thể tôi phải chịu số phận bi thảm của các anh Trần Minh Việt, Nguyễn Kiến Giang và biết bao nhiêu cán bộ cao cấp, trung cấp khác, người thì bị chết trong tù, người sắp chết trong tù thì người ta vội vã đưa về nhà... chết, người thì âm thầm chết khi bị giam tại gia...
Thứ ba, tôi không phải trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, mà vì phản đối nó, tôi bị quy “tội” “xét lại-chống Đảng”. Cứ mỗi lần nghĩ đến điều này, tôi thấy lòng mình thật nhẹ nhõm vì đã giữ lập trường đúng và đã dám nói lên sự không đồng tình của mình với Đảng.4
Chỉ có một điều đau đớn day dứt trong lòng là vì tôi thoát ly khỏi Đảng mà vợ con tôi phải chịu biết bao điều khổ cực, biết bao nỗi oan trái do chính sách kỳ thị bất công của Đảng; các anh, các chị và các cháu tôi cũng bị vạ lây... Còn việc bộ máy tuyên huấn của Đảng ra sức vu khống, đặt lắm điều nói xấu tôi và các bạn tôi thì tôi chẳng bận tâm. Cho đến gần đây, báo của Đảng vẫn không ngừng nói xấu tôi. Tôi chẳng để ý, chỉ khi đọc bài của một blogger mà tôi chẳng hề quen đăng trên Đối Thoại phản bác lại tờ báo ấy thì tôi mới biết.5
Tôi kể cụ thể những điều trên để anh chị em đảng viên cộng sản – già cũng như trẻ – còn đang phân vân, hiểu rằng, hơn ai hết, là người “đã qua cầu”, tôi rất thông cảm các bạn. Sự ngập ngừng, do dự của các bạn là rất dễ hiểu. Nhưng, chắc chắn là các bạn sẽ không phải chịu những đau đớn ê chề như chúng tôi. Còn khi các bạn đã dám làm một bước quyết định là ra khỏi cái Đảng độc tài, thối nát, tham nhũng hiện nay rồi thì các bạn sẽ thấy tâm hồn mình nhẹ nhõm, thoải mái lạ thường, “vòng kim cô” trên đầu bạn đã biến mất lúc nào không hay. Việc đó sẽ mở ra một chân trời mới để các bạn có thể cống hiến sức lực, trí tuệ của mình cho những công việc có ích cho Tổ quốc và Dân tộc, hơn là vẫn phải cúi đầu tiếp tục phục vụ cho tập đoàn thống trị mafia hóa, đội lốt CS, độc tài, tham nhũng./.

Chuyện dài ra đảng và đa đảng (phần 2)


000_Hkg8239642-305.jpg
Pano tuyên truyền cho ngày thành lập ĐCSVN tại Hà Nội được chụp hôm 27/2/2013
AFP photo
Khi kêu gọi các đảng viên cộng sản “tuyên bố tập thể ra khỏi Ðảng”, hai ông Lê Hiếu Đằng và Hồ Ngọc Nhuận có nêu vấn đề “thành lập Đảng dân chủ-xã hội”, nên chúng tôi muốn nói rõ thêm về chủ nghĩa xã hội-dân chủ.

Chủ nghĩa xã hội – dân chủ

Trước hết, xin nói về từ ngữ. Theo tôi, từ ngữ “xã hội-dân chủ” phản ánh đúng thực chất của chủ nghĩa xã hội-dân chủ hơn là từ ngữ “dân chủ-xã hội”. Vì sao? Vì cơ sở tư tưởng của phong trào “xã hội-dân chủ” là học thuyết về chủ nghĩa xã hội, mà thứ chủ nghĩa xã hội đó là chủ nghĩa xã hội dân chủ; nó khác hẳn thứ chủ nghĩa xã hội chuyên chính vô sản, chủ nghĩa xã hội độc tài, tức là thứ chủ nghĩa xã hội của người cộng sản.
Từ ngữ chủ nghĩa xã hội-dân chủ lần đầu tiên được nhà văn Anh Bernard Shaw dùng năm 1888. Sau này, tại Đại hội thành lập Quốc tế Xã hội chủ nghĩa (gọi tắt là Quốc tế Xã hội - SI) tại Frankfurt năm 1951, từ ngữ này đã được chính thức sử dụng. Qua những bước thăng trầm, ngày nay Quốc tế Xã hội đã lớn mạnh, đến năm 1999 đã có 143 đảng gia nhập. Những người cộng sản nước ta biết đến chủ nghĩa xã hội-dân chủ và các Đảng Xã hội-Dân chủ, chủ yếu qua những bài mạt sát thậm tệ của Lenin, Stalin và những người CS khác... đối với các lãnh tụ của phong trào này, như Ferdinand Lassalle, Karl Kautsky, Eduard Bernstein, v.v.... Các đảng viên CSVN vì bị bưng bít trên 70 năm trời, chỉ được nghe duy nhất một tiếng nói của Lenin, Stalin... không hề được tiếp cận các nguồn tư liệu khác, nên thường có lắm điều ngộ nhận.
Các Đảng Xã hội-Dân chủ châu Âu phần nhiều chịu ảnh hưởng của Ferdinand Lassalle (1825–1864), người sáng lập ra Đảng Xã hội-Dân chủ Đức hồi năm 1863 và là chủ tịch đầu tiên của đảng. Mãi 26 năm sau khi Đảng Xã hội-Dân chủ Đức ra đời, Friedrich Engels và một số người khác mới thành lập Quốc tế Xã hội chủ nghĩa, còn gọi là Quốc tế II. Quốc tế này thu hút các Đảng Xã hội chủ nghĩa, trong đó có Đảng Xã hội-Dân chủ Đức. Trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất, trong hàng ngũ Quốc tế II có nhiều phái khác nhau, trái nhau về quan điểm và đường lối. Đến năm 1914 vì không thống nhất được với nhau về chiến lược cũng như phương thức đấu tranh nên Quốc tế II phải giải tán.
Trong phong trào xã hội-dân chủ có một phái nhỏ những người theo chủ nghĩa Marx, chủ trương cách mạng bạo lực giành chính quyền, đập tan bộ máy nhà nước cũ, thiết lập chuyên chính vô sản để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là Vladimir Lenin, Rosa Luxemburg, Karl Liebknecht... Về sau những người này tách ra thành lập Đảng Cộng sản. Lenin và những người CS căm ghét các lãnh tụ và đảng viên các Đảng Xã hội-Dân chủ, mạt sát họ tàn tệ, còn khi nắm được chính quyền ở Nga thì thẳng tay đàn áp, thậm chí tiêu diệt họ về thể xác.
Các phái khác trong phong trào xã hội-dân chủ thì ôn hòa hơn, họ chủ trương xét lại chủ nghĩa Marx, từ bỏ con đường bạo lực cách mạng, phủ nhận chuyên chính vô sản, v.v... như Karl Kautsky, Eduard Bernstein, Rudolf Hilferding, Friedrich Adler...  Những người này chú trọng công bằng xã hội, chủ trương quốc hữu hóa những xí nghiệp quan trọng về chiến lược, nhà nước can thiệp vào kinh tế, đối tác xã hội giữa những người lao động và những người thuê nhân công, xây dựng một xã hội dân chủ đa nguyên về tư tưởng, đa đảng về chính trị, dựa vào những nguyên tắc tự do và tình huynh đệ, bảo đảm triệt để quyền con người, bảo vệ quyền lợi của tất cả mọi người lao động – không chỉ giai cấp công nhân, mà cả giới trí thức, nông dân, các trại chủ và tầng lớp trung gian, kể cả các doanh nhân nhỏ và vừa. Họ cho rằng điều kiện quan trọng nhất để xác lập chủ nghĩa xã hội đúng thực chất là thực hiện nền dân chủ chân chính trong mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội.
Dân chủ chính trị phải bảo đảm cho người dân mọi quyền và quyền tự do của công dân, bảo đảm tính đa đảng, chế độ nghị trường, quyền phổ thông bầu cử, thượng tôn luật pháp và sự tham gia thực sự của người dân vào việc điều hành công việc xã hội.
lhd-250
Luật gia Lê Hiếu Đằng, ảnh chụp trước đây.
Dân chủ kinh tế nhằm chống lại sự tập trung quyền lực kinh tế vào tay một thiểu số, để mỗi người đều có thể ảnh hưởng đến quá trình sản xuất và phân phối. Vì thế dân chủ kinh tế phải nhằm xây dựng một hệ thống kinh tế đảm bảo được việc sử dụng nguồn tài nguyên xã hội cho lợi ích của mọi người. Theo quan niệm của những người xã hội-dân chủ, quyền lực kinh tế trong xã hội không thuộc những người nắm phương tiện sản xuất, mà thuộc về những người điều hành chúng. Vì vậy áp dụng dân chủ kinh tế phải được bảo đảm không phải bằng việc tước đoạt sở hữu của những người chủ xí nghiệp, mà bằng cách làm cho đông đảo người lao động tham gia ngày càng nhiều vào việc điều hành doanh nghiệp, cả ở các xí nghiệp riêng lẻ (qua các hội đồng sản xuất, kiểm tra lượng người làm, việc trả công lao động và điều kiện lao động, hợp đồng tập thể giữa người lao động và chủ các xí nghiệp), cũng như trong phạm vi toàn xã hội (qua việc thành lập các cơ quan đối tác xã hội giữa người lao động và các nhà kinh doanh, việc mở rộng lĩnh vực sở hữu của thị chính, của hợp tác xã, của nghiệp đoàn, v.v...). Trước đây, những người xã hội-dân chủ chủ trương quốc hữu hóa và kế hoạch hóa, ngày nay, họ nhấn mạnh vai trò của thị trường, nhưng vai trò này phải được nhà nước điều tiết. Còn nhà nước phải khá “ôn hòa” và không được gây trở ngại cho sáng kiến riêng của cá nhân.
Dân chủ xã hội là mục tiêu cuối cùng của những người xã hội-dân chủ, nó nhằm bảo đảm mọi quyền lợi xã hội của người lao động (các quyền lao động, học vấn, nghỉ ngơi, trị bệnh, nhà ở, bảo đảm xã hội), cũng như phải xóa bỏ mọi hình thức áp bức, kỳ thị, người bóc lột người, bảo đảm các điều kiện để cho sự phát triển tự do của mỗi cá nhân.
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội-dân chủ phải đạt tới bằng nhưng phương tiện hòa bình và dân chủ, bằng sự tiến hóa dần dần của xã hội, nhờ những cải cách, nhờ sự hợp tác giữa các giai cấp, dựa trên sự ủng hộ của nhà nước dân chủ.
Những điều trình bày trên đây về chủ nghĩa xã hội-dân chủ không chỉ là lý thuyết mà đã được thực hiện hàng chục năm rồi trong  thực tiễn ở nhiều nước châu Âu, đặc biệt ở Bắc Âu, như ở Đan Mạch, Thụy Điển, Na Uy, Phần Lan; những nơi đó tự do dân chủ được đảm bảo tuyệt đối, xã hội rất trong sạch, hầu như vắng bóng nạn tham nhũng, nên chất lượng đời sống của người dân rất cao. Một vài nước châu Âu, như Đức, Pháp, Anh..., châu Mỹ, như Canada, châu Úc, như nước Australia cũng đã đạt được nhiều thành tựu của chủ nghĩa xã hội-dân chủ. Còn tình trạng các nước do các ĐCS đi theo con đường của chủ nghĩa Marx-Lenin, nhân dân bị thống trị bi đát như thế nào, tưởng không cần phải nói.
Nói đến những nhân vật đấu tranh cho một xã hội tốt đẹp hơn ở nước ta ít nhiều chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội-dân chủ thì tôi rất đồng tình với hai ông Hà Sĩ Phu và Mai Thái Lĩnh, là trước tiên phải nói đến nhà chí sĩ Phan Châu Trinh (1872-1926). Cụ là một nhà dân chủ Việt Nam không kêu gọi bạo lực, không có đầu óc chuyên chính. Người thứ hai chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội-dân chủ là Giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ (1920-1947). Ông đã sáng lập ra Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng (ngày 21.09.1946), gọi tắt là Đảng Dân Xã. Đảng này theo nguyên tắc “chủ quyền ở nơi toàn thể nhân dân”, chủ trương “toàn dân chánh trị”“chống độc tài bất cứ hình thức nào”. Nét độc đáo của Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ là tư tưởng xã hội-dân chủ hòa quyện với giáo lý đức Phật.
Chúng tôi viết nhiều về chủ nghĩa xã hội-dân chủ, mà ít nói đến Đảng Xã hội-Dân chủ, vì nghĩ rằng, phấn đấu để thực hiện chủ nghĩa xã hội-dân chủ, không chỉ có các  Đảng Xã hội-Dân chủ. Đảng của những người xã hội-dân chủ còn có thể mang nhiều tên khác, như Đảng Lao động, Đảng Công nhân, Đảng Công bằng, Đảng Chính Nghĩa, v.v... Cái tên đảng không phải là quan trọng, cái chính, cái thực chất là cương lĩnh, là mục tiêu đấu tranh của đảng, tức là chủ nghĩa xã hội-dân chủ đích thực. Chúng tôi nhấn mạnh chữ “đích thực”, vì trên đời này, khi có những thứ tốt thuộc “hàng chính hiệu” thì thường cũng xuất hiện nhiều “hàng giả”, “hàng nhái”. Điều này dễ thấy ở một vài nước CS gọi là “xã hội chủ nghĩa”: Khi “hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới” bị sụp đổ hồi cuối những năm 80 đầu những năm 90 thế kỷ trước thì ban lãnh đạo một vài ĐCS vội vàng thay đổi nhãn hiệu,  đổi tên đảng thành Đảng Xã hội-Dân chủ, Đảng Xã hội, Đảng Dân chủ, và tuyên bố theo chủ nghĩa xã hội-dân chủ, chỉ cốt để bảo vệ quyền lực của giai cấp cầm quyền cũ, chứ thực ra họ vẫn giữ thực chất CS. Đó là một thực tế, các chiến sĩ dân chủ cần cảnh giác.
Viết đến đây, chúng tôi không thể không nhắc đến ý kiến của Giáo sư Phan Đình Diệu, một trong những nhà trí thức khả kính. Ý kiến của ông như thế này: “Tôi hy vọng là Đảng (cộng sản) sẽ tự biến đổi thàng Đảng xã hội dân chủ để lãnh đạo nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa dân chủ, như vậy thì cả vấn đề giữ quyền lãnh đạo cho Đảng (cộng sản) và tạo ra một nền dân chủ của xã hội đều được giải quyết một cách trọn vẹn, và do đó, nước ta sẽ sớm thực hiện được mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, hội nhập vào quốc tế.” Giáo sư Tiến sĩ Phan Đình Diệu giỏi về toán học, ông là người khảng khái, chính trực, nhưng chưa chắc ông đã giỏi về chính trị học. Bài toán khó khăn của Đất nước mà Tiến sĩ giải cách này, chúng tôi tin chắc rằng “đáp số” sẽ làm ông thất vọng nặng nề!
Nhân tiện, cũng xin nói thêm điều này: hiện nay ở Việt Nam, có những nhân sĩ, trí thức... đề nghị đổi tên ĐCSVN thành Đảng Lao động Việt Nam, đổi tên nước CHXHCNVN thành Cộng hòa Dân chủ Việt Nam, tưởng như vậy thì tình hình VN sẽ thay đổi hẳn, mọi sự sẽ tốt lên. Về chuyện đổi tên, kẻ viết bài này có học được một bài học rất thấm thía do Chủ tịch Đảng Hồ Chí Minh dạy cho. Xin chia sẻ cùng các bạn: Năm 1950, chúng tôi được triệu tập đến căn cứ địa của Trung Ương để tham dự cuộc họp chuẩn bị cho việc đổi tên ĐCS tại Đại hội Đảng năm 1951. Cụ Hồ bước lên bục giảng giải đáp thắc mắc cho khoảng ba trăm cán bộ cao cấp và trung cấp đến họp. Cụ mở nắp hộp thuốc lá thơm của cụ nhãn hiệu CRAVEN A. Giơ cao nắp hộp phía có chữ CRAVEN A lên trước mặt chúng tôi, cụ lớn tiếng nói: “Đây là ĐCS”, rồi cụ xoay nắp hộp mặt trái phía trong không có chữ, đưa lên và nói tiếp: “Đây là Đảng Lao động”. Rồi cụ thủng thẳng hỏi: “Đã rõ chưa? Có khác nhau gì không?” Cả hội trường ầm vang tiếng đáp: “Rõ rồi ạ! Dạ, không khác nhau gì cả!”.
Đúng là bài học nhớ đời! Dưới thời ĐLĐVN cũng như dưới thời ĐCSVN, dưới thời VNDCCH cũng như dưới thời CHXHCNVN, mọi tầng lớp nhân dân đều phải chịu biết bao thảm kịch! Lẽ nào các nhà trí thức, các nhân sĩ và toàn dân ta không thấy hay sao?

Cần có một tư duy đúng

ho-ngoc-nhuan-250
Ông Hồ Ngọc Nhuận. File photo.
Chúng tôi đánh giá cao tâm nguyện của Luật gia Lê Hiếu Đằng và nhà báo Hồ Ngọc Nhuận, khi hai ông kêu gọi các đảng viên cộng sản hãy “tuyên bố tập thể ra khỏi Ðảng và thành lập một Ðảng mới”, Đảng Xã hội-Dân chủ. Lời kêu gọi xây dựng một chế độ dân chủ đa đảng, đa nguyên và kêu gọi thành lập một Đảng Xã hội-dân chủ đáng trân trọng. Có người còn cho đó là “bản tuyên ngôn về con đường nhất thiết phải đi...” mặc dù đó chỉ là một lời kêu gọi thôi, không có cương lĩnh, mục tiêu, chương trình gì cụ thể cả.
Thật ra, lời kêu gọi đó của hai ông không có gì mới. Khi nói đến “tuyên ngôn”, thiết tưởng cần phải nhắc lại để mọi người nhớ: Cách đây trên 7 năm, lần đầu tiên trong lịch sử phong trào dân chủ nước ta, đã từng có một bản tuyên ngôn của 118 công dân ở trong nước (xin nhấn mạnh ba chữ ở trong nước) khao khát tự do dân chủ được công bố công khai ngày 08.04.2006. Đó là “Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Việt Nam 2006” (còn gọi là Tuyên ngôn 8406). Tuyên ngôn đó đã nói rất rõ ràng và mạnh mẽ về mục tiêu đấu tranh cho một chế độ dân chủ đa nguyên, đa đảng, mục tiêu đấu tranh cho mọi  quyền tự do, dân chủ. Tuyên ngôn đó, được trên 5000 người Việt Nam trong và ngoài nước công khai ký tên, và được 140 chính khách quốc tế bảo trợ, trong đó có cố Tổng thống Vaclav Havel.
Tuyên ngôn 8406 vạch rõ rằng, sau khi cướp được chính quyền, ĐCS đã thủ tiêu quyền dân tộc tự quyết của nhân dân Việt Nam, đã chà đạp thô bạo tất cả những quyền thiêng liêng về tự do, dân chủ, cũng như quyền được sống yên bình và mưu cầu hạnh phúc. Tuyên ngôn 8406 nhận định rằng, vì “lấy chủ nghĩa Mác-Ăng-ghen-Lênin-Xtalin và tư tưởng Mao Trạch Đông, kết hợp với thực tiễn Việt Nam làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng” nên ĐCS đưa “bóng ma của chủ nghĩa cộng sản đã luôn đè ám lên đầu, lên cổ toàn Dân Việt Nam”, ... “đã triệt tiêu hầu hết những quyền con người của Nhân dân Việt Nam. Và hôm nay, nó vẫn đang tạm đô hộ, chiếm đóng lên cả hai mặt tinh thần và thể chất của toàn Dân tộc Việt Nam”. Tuyên ngôn 8406 nói rõ Mục tiêu cao nhất trong cuộc đấu tranh giành tự do, dân chủ cho Dân tộc hôm nay là làm cho thể chế chính trị ở Việt Nam hiện nay phải bị thay thế triệt để, chứ không phải được “đổi mới” từng phần hay điều chỉnh vặt vãnh như đang xảy ra. Cụ thể là phải chuyển từ thể chế chính trị nhất nguyên, độc đảng, không có cạnh tranh trên chính trường hiện nay, sang thể chế chính trị đa nguyên, đa đảng, có cạnh tranh lành mạnh, phù hợp với những đòi hỏi chính đáng của Đất nước, trong đó hệ thống tam quyền Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp phải được phân lập rõ ràng, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế và trải nghiệm của Nhân loại qua những nền dân chủ đắt giá và đầy thành tựu. Còn Mục tiêu cụ thể là thiết lập lại các quyền cơ bản của toàn Dân sau đây: Quyền Tự do Thông tin Ngôn luận...”, “Quyền Tự do hội họp, lập hội, lập đảng, bầu cử và ứng cử...”, “Quyền Tự do hoạt động Công đoàn độc lập và Quyền Đình công chính đáng...”, “Quyền Tự do Tôn giáo.... Tuyên ngôn 8406 tuyên bố rõ ràng Phương pháp của cuộc đấu tranh này là hòa bình, bất bạo động...” (các chữ in đậm trong các ngoặc kép là theo đúng nguyên bản).
Chúng tôi nghĩ rằng Tuyên ngôn 8406 này rất xứng đáng làm bảng chỉ đường cho phong trào đấu tranh giành Tự do, Dân chủ ở nước ta. Chính vì đấu tranh cho một Cương lĩnh đúng đắn như vậy, nên đến nay dù bị khủng bố rất ác liệt, hàng trăm chiến sĩ dân chủ của Khối 8406 đã bị truy bức, sách nhiễu, đàn áp hết sức tàn bạo, bị tống vào tù ngục CS, bị quản chế tại nhà, nhưng phong trào dân chủ vẫn được duy trì và ngày càng phát triển. Cho đến nay đã có 190 thành viên của Khối 8406 là nạn nhân của sự đàn áp như vậy, trong số đó 65 chiến sĩ dân chủ bị lãnh án tù giam từ 7 năm trở lên! Rất nhiều chiến sĩ của Khối 8406 đã nêu gương đấu tranh kiên cường trong nhà tù. Chúng tôi không thể nêu hết tên của họ, vì sợ chiếm nhiều chỗ trong bài.
Cũng cần nói thêm, Khối 8406 còn đề ra “Cương lĩnh Khối 8406” và công bố “Tiến trình Dân chủ hóa Việt Nam gồm 4 giai đoạn & 8 bước”. Khối 8406 đã phát hành tờ bán nguyệt san “Tự Do Ngôn Luận”, vừa là báo mạng vừa là báo giấy có 32 trang A4 để vận động cho tự do dân chủ, chống chế độ độc tài toàn trị. Từ ngày 15.04.2006 đến ngày 01.09.2013, bán nguyệt san không xin phép này đã ra được 178 số. Khối 8406 còn thường xuyên ra những lời tuyên bố, những lời kêu gọi, những nhận định, những kháng thư... để hướng dẫn dư luận, phản đối nhà cầm quyền và động viên đại chúng đấu tranh.
Chúng tôi nghĩ rằng cần phải nói những điều này để mọi người nhìn thấy rõ những thành tựu đã có, không vì những hiện tượng mới bộc phát mà che lấp những thành tựu đã thực hiện được bằng nỗ lực, bằng xương máu, nước mắt và mồ hôi của hàng trăm, hàng nghìn người!
Khi đọc kỹ những bài viết và bài nói (trả lời phỏng vấn) của Luật gia Lê Hiếu Đằng và nhà báo Hồ Ngọc Nhuận, chúng tôi không thể không nói đến tính hời hợt, thô thiển, chưa chín chắn của những lập luận của hai ông.
Nhiều người có nhận xét về điều ông Lê Hiếu Đằng đã cho biết: “Nằm trong bệnh viện... tôi đã suy nghĩ, đọc một số bài báo rồi các nhà văn, nhất là những nhà văn quân đội như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu” rồi ông mới “thấy sự bi thảm của thân phận con người trong cái gọi là CNXH ở miền Bắc, một xã hội không có bóng người”, ông chuyển biến tư tưởng và hạ bút viết bài “Suy nghĩ trong những ngày nằm bnh”. Người đọc có thể nghĩ rằng sự hiểu biết của ông Lê Hiếu Đằng như thế là chưa sâu sắc. Nhưng dẫu sao tôi cũng mong rằng nhận thức của ông Đằng còn chín chắn hơn nhiều so với cái “hiểu loáng thoáng” của ông Nguyễn Tất Thành1 hồi năm 1920, khi ông này nhảy từ Đảng Xã hội Pháp sang Quốc tế III; mà vì cú nhảy đó Đất nước và Dân tộc Việt Nam đã và đang chịu biết bao tai họa! Chuyện ông Lê Hiếu Đằng chuyển từ ĐCS sang cổ động cho Đảng Xã hội-Dân chủ làm ta nhớ đến “cú nhích chân” (cụm từ của Tiến sĩ Hà Sĩ Phu) của ông Nguyễn Tất Thành mà Tiến sĩ đã nhắc đến trong bài “Xưa nhích chân đi, giờ nhích chân lại” bước từ Đảng Xã hội Pháp sang Quốc tế III của Lenin, chỉ vì ông Nguyễn Tất Thành thấy “Đệ Tam Quốc tế rất chú ý đến vấn đề thuộc địa”2, ...“Còn như Đảng là gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa Xã hội và chủ nghĩa Cộng sản là gì thì tôi (tức Nguyễn Tất Thành) chưa hiểu”3. Thậm chí “Sơ thảo luận cương về các dân tộc và thuộc địa” của Lenin đăng trên báo L’Humanité ngày 16-6-1920 thì “ngay cả chữ nghĩa trong văn bản” ấy ông Nguyễn Tất Thành “cũng chỉ hiểu loáng thoáng thôi”4.
Về vấn đề thành lập đảng đối lập, ông Bằng Phong Đặng Văn Âu đã viết chí lý trong bài “Căn bệnh khủng hoảng trí tuệ”: “...Là luật gia, là nhà hoạt động chính trị, ông Đằng nói đến thành lập đảng đối lập với chính quyền cộng sản có vẻ rất tài tử, khơi khơi. Ít nhất ông phải phác họa vắn tắt về cái chủ trương, đường lối (của đảng ấy) như thế nào để người đọc biết ý ông ra sao.”
Hai ông Lê Hiếu Đằng và Hồ Ngọc Nhuận nên xem lại mình có ngây thơ không, khi nói rằng: “Chủ trương không đa nguyên đa đảng chỉ là chủ trương của Đảng, chứ chưa có một văn bản nào cấm điều này? Mà nguyên tắc pháp lý là điều gì luật pháp không cấm chúng ta đều có quyền làm. Đó là quyền công dân chính đáng của chúng ta.” Các ông quên rằng hai ông cũng như toàn dân nước ta đang sống dưới chế độ độc tài toàn trị của ĐCSVN hay sao? Xưa nay có bao giờ ĐCS coi trọng luật pháp, coi trọng  nguyên tắc pháp lý đâu, tất cả những thứ đó trong mắt đám cầm quyền CS chỉ là những quan niệm tư sản về pháp quyền phải vứt bỏ. Ngoài miệng họ vẫn nói “thượng tôn pháp luật”, nhưng đó là thứ “pháp luật phi pháp” của họ thôi mà họ bắt người dân phải theo! Thực ra họ có coi pháp luật ra cái gì đâu? Thế thì mấy chữ của ông Lê Hiếu Đằng “Cần cho lập thêm các đảng đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam” có nghĩa lý gì với họ?
Thành thật mà nói, đọc những điều hai ông nói và viết về dân chủ đa đảng và về Đảng Xã hội-Dân chủ, chúng tôi thấy rằng nhận thức của hai ông còn... – xin đừng giận vì lời nói thẳng – thô thiển và mơ hồ.  Về vấn đề này, chúng tôi hoàn toàn đồng tình với nhà báo Ngô Nhân Dụng, viết trong bài “Ông Hồ Ngọc Nhuận cần đổi cách suy nghĩ”. Ông Ngô Nhân Dụng có lời khuyên rất chí lý:  “Trong lúc tranh đấu để thiết lập một xã hội dân chủ tự do chúng ta cần sống theo lối tự do dân chủ”. Chúng xin nói thêm: Mà muốn sống theo lối tự do dân chủ thì phải hiểu thấu đáo xã hội dân chủ tự do đích thực nó phải như thế nào?
Cũng như khi kêu gọi thành lập Đảng Xã hội-dân chủ thì phải hiểu thấu đáo về chủ nghĩa xã hội-dân chủ, về lịch sử của phong trào xã hội-dân chủ thế giới, về mục tiêu của chủ nghĩa đó qua các thời kỳ lịch sử cũng như về cương lĩnh của Đảng Xã hội-dân chủ, phải nói rõ sự khác biệt to lớn của mục tiêu của chủ nghĩa xã hội-dân chủ so với chủ nghĩa xã hội-chuyên chính vô sản, tức là chủ nghĩa xã hội-độc tài của những người cộng sản. Đáng tiếc là hai ông Lê Hiếu Đằng và Hồ Ngọc Nhuận đã không làm được điều đó. Có chỗ ông Lê Hiếu Đằng lại viết ông muốn “thành lập một đảng mới, chẳng hạn như đảng Dân chủ-Xã hội”. Người đọc cảm thấy dường như ông chưa chắc chắn lắm, hoặc chưa quyết định dứt khoát. Thế thì làm sao người ta có thể đáp ứng lời kêu gọi của ông?
Tôi ngạc nhiên khi nghe Luật gia Lê Hiếu Đằng trả lời phóng viên RFI, ông nói rằng ông “phân tích theo quan điểm Mác-Lênin thôi”, dựa theo những điều ông đã “học abc của  chủ nghĩa Mác-Lênin” thì ông thấy chế độ độc đảng là “vô lý, cái này nó phản lại (ý nói chủ nghĩa Mác-Lênin)”. Như vậy là ông không biết rằng cái gọi là “chủ nghĩa Mác-Lênin” của Lenin và Stalin bao giờ cũng chủ trương độc đảng, tức là chỉ một mình đảng cộng sản độc tôn thống trị, cái đó Lenin gọi là “hegemonia” (Nhà xuất bản Sự Thật dịch là độc quyền lãnh đạo) của ĐCS. Chính cái đó mới đẻ ra chế độ độc tài toàn trị CS với nguyên tắc “chuyên chính vô sản” – đó là nguyên nhân của mọi tai họa của Đất nước và Dân tộc VN ta! Thế mà ông Lê Hiếu Đằng lại cho chế độ độc đảng là “vô lý, cái này nó phản lại” chủ nghĩa Mác-Lênin!
Tôi giật mình khi thấy ông nói rằng: “Trong cuốn “Mao Trạch Đông ngàn năm công tội” ông đại tá nói thời kỳ Mao già rồi cũng nghiêng về khuynh hướng dân chủ xã hội của Đệ Nhị Quốc tế, rồi bản thân ông cũng đề nghị như vậy”! Có thể nào một người đang kêu gọi thành lập Đảng Xã hội-Dân chủ lại có thể mơ hồ đến thế về tên độc tài CS đẵm máu nhất nhì thế giới của thế kỷ 20?
Hai ông Lê Hiếu Đằng và Hồ Ngọc Nhuận kêu gọi các đảng viên cộng sản ra khỏi Đảng để thành lập Đảng Xã hội-Dân chủ đối lập với ĐCS. Có lẽ hai ông chưa nghĩ sâu rằng: nếu một Đảng Xã hội-Dân chủ chỉ gồm rặt những đảng viên cộng sản cũ thì cái Đảng Xã hội-Dân chủ đó có thể bảo đảm thực hiện đúng tinh thần và thực chất của chủ nghĩa xã hội-dân chủ đích thực hay không? Hay một thời gian nào đó, đảng ấy sẽ mất đi tính đối lập mà quay trở lại thỏa hiệp với đảng cầm quyền? Một Đảng Xã hội-Dân chủ kiểu đó có khả năng thâm nhập được vào đại chúng không? Hay nó chỉ tự đóng mình trong câu lạc bộ “các cụ lão thành cựu đảng viên CS”? Vì sao hai ông không đặt vấn để rộng rãi hơn, không kêu gọi các tầng lớp khác, thanh niên, công nhân, lao động, trí thức, nông dân, doanh nhân, trại chủ cùng tham gia Đảng Xã hội-Dân chủ? Chính những lớp người này không bị những nếp nghĩ theo lối CS hằn sâu trong óc, không bị nhiễm sâu trong máu những tư tưởng, phong cách CS mới có khả năng tiếp thụ chủ nghĩa xã hội-dân chủ đích thực, mới có khả năng cạnh tranh với ĐCS và ít khuynh hướng thỏa hiệp với ĐCS. Cạnh tranh thật sự với ĐCS, đối lập chính trị thật sự với ĐCS thì mới có hy vọng thay đổi chính quyền qua các cuộc bầu cử tự do, chứ nếu cứ nghĩ rằng “cùng hợp tác (với ĐCS) để thúc đẩy xây dựng dân chủ cho nước Việt Nam” thì e rằng chẳng mấy chốc Đảng Xã hội-Dân chủ chỉ gồm các cựu đảng viên CS sẽ trở thành “cái đuôi” của ĐCS!
Dù chúng tôi có nhiều thiện cảm với chủ nghĩa xã hội-dân chủ, nhưng để đấu tranh với ĐCS, chúng tôi nghĩ rằng không nhất thiết đảng đối lập phải là (hoặc chỉ là) Đảng Xã hội-Dân chủ mà còn cần đến nhiều đảng khác nữa, nhiều tổ chức, nhiều phong trào, nhiều diễn đàn, nhiều mặt trận, nhiều liên minh, ngay cả nhiều hội đoàn có hay không có tính chính trị nữa. Mỗi đảng, mỗi tổ chức đại biểu cho một lớp người có ý hướng, có quyền lợi, có mục tiêu, có sở thích... giống nhau, tất cả những cái đó hình thành một xã hội dân sự mạnh mẽ mới có khả năng đối lập với ĐCS và chính quyền CS.
Dù rằng trong nhận thức, quan niệm hoặc cách diễn đạt hai ông Lê Hiếu Đằng và Hồ Ngọc Nhuận còn có chỗ bất cập, thiếu sót, nhưng hai ông đã can đảm gióng lên tiếng nói chính nghĩa trong lúc nhiều người còn mê ngủ. Điều đó thật đáng hoan nghênh.
Nguyễn Minh Cần, ngày 01/09/2013


NGUỒN: http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/long-story-party-diversity-10242013090509.html