Tuesday, 30 December 2014

Chính phủ VN và Campuchia đứng trước thách thức lật đổ?

Chính phủ VN và Campuchia đứng trước thách thức lật đổ?

P-8-0918.JPG
Cộng đồng Khmer Krom, nhà sư và người dân Campuchia biểu tình phản đối Việt Nam hôm 13/8/2014.
 RFA PHOTO/Quốc Việt

Campuchia chịu áp lực của chính phủ VN?

Campuchia và Việt Nam vừa kết thúc Hội nghị báo cáo kết quả hợp tác bảo vệ an ninh biên giới giữa hai nước tại thủ đô Phnom Penh của Campuchia vào ngày 16 tháng 9 vừa qua. Chính phủ Campuchia khẳng định Campuchia và Việt Nam đang đứng trước thách thức bị lật đổ chính phủ giống nhau. Phản ứng đối với tuyên bố đó ra sao?
Tổng cục Cảnh sát Quốc gia, Bộ Nội vụ Campuchia và Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng, Bộ Quốc phòng Việt Nam vừa công bố báo cáo và đánh giá kết quả hợp tác của lực lượng Công an quốc gia hai nước thời gian qua trong lĩnh vực phòng chống tội phạm xuyên biên giới.
Campuchia và VN vẫn còn gặp những khó khăn và thách thức bởi các hoạt động của thế lực thù địch, nhóm cực đoan đang hoạt động chống phá và lật đổ chính phủ Campuchia và VN. 
-Neth Savoeun
Thống tướng Neth Savoeun, Tổng Cục trưởng Cục cảnh sát Campuchia khẳng định trước Trung tướng Võ Trọng Việt, Tư lệnh Bộ đội biên phòng, dẫn đầu đoàn Việt Nam tham dự Hội nghị rằng lực lượng Công an hai nước đã hợp tác tốt và hỗ trợ lẫn nhau trong công tác đảm bảo an ninh trật tự, an ninh biên giới Campuchia và Việt Nam.
Ông Neth Savoeun nói Campuchia và Việt Nam vẫn còn gặp nhiều thách thức liên quan tội phạm xuyên biên giới như các lĩnh vực phòng chống tội phạm hình sự, ma túy; tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em; tội phạm kinh tế, buôn lậu… Thách thức như thế làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự, an ninh biên giới của hai nước.
Ông Neth Savoeun còn nhấn mạnh thêm: “Campuchia và Việt Nam vẫn còn gặp những khó khăn và thách thức bởi các hoạt động của thế lực thù địch, nhóm cực đoan đang hoạt động chống phá và lật đổ chính phủ Campuchia và Việt Nam. Đặc biệt, phá hoại tình hữu nghị, đoàn kết của hai nước. Cụ thể, kể từ trước cuộc bầu cử Quốc hội khóa V diễn ra cho đến nay, nhóm chính trị đối lập cùng với sự ủng hộ của kẻ sống lưu vong đã tuyên truyền bôi nhọ và kích động phân biệt sắc tộc; thậm chí dẫn đến hành động bạo lực chống người Việt Nam.”
Sư Sơn Hải, một sư sãi Khmer Krom đứng đầu nhiều cuộc biểu tình chống Việt Nam tại Campuchia nói rằng các cuộc biểu tình nổ ra vừa qua vì chính phủ Việt Nam đã vi phạm nhân quyền, tín ngưỡng tôn giáo và xét xử bất công đối với người dân tộc thiểu số và những người Việt bất đồng chính kiến:
P-1-0918-400.jpg
Trụ sở Tổng cục Cảnh sát Hoàng gia Campuchia tại thủ đô Phnom Penh, ảnh chụp ngày 18/09/2014. RFA PHOTO/Quốc Việt.
“Những phát biểu của ông Neth Savoeun là không đúng bởi vì Campuchia là một đất nước dân chủ, tự do, không phải Cộng sản. Nhà nước Cộng sản thì làm gì cũng sai, nhưng đối với một nước tự do, dân chủ thì người dân đều có quyền biểu tình, đưa ra ý kiến… Ông Neth Savoeun nói như vậy cho thấy ông này có quan hệ thân mật với Việt Nam, chịu áp lực của chính phủ Việt Nam vì đã ám chỉ những người tham gia biểu tình đó là muốn lật đổ chính phủ Campuchia và Việt Nam. Mọi người dân đều có quyền tự do phát biểu, làm sao là đừng để bạo lực xảy ra, không vi phạm luật pháp.
Chúng tôi không có mục đích nào lật đổ chính phủ Việt Nam hay chính phủ Campuchia. Chúng tôi không có đạn súng, không có bom hoặc thứ gì khác để chống nhà nước. Nếu như ông này cho rằng chúng tôi muốn lật đổ, hay cáo buộc một thế lực khủng bố nào bất hợp pháp thì phải đưa ra bằng chứng.”

Lợi dụng cơ hội đàn áp người biểu tình?

Còn ông Nguyễn Duy Đường, người Campuchia gốc Việt, từng tham gia đấu tranh chống đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng chính phủ Campuchia cần đưa ra cụ thể vấn đề tránh sự lợi dụng cơ hội để đàn áp những người đấu tranh cho quyền tự do bằng cách ghép tội phản động, hoặc tự trị ly khai:
“Vấn đề ai là lưu vong, ai có ý định lật đổ thì nó phải có cụ thể từ vấn đề. Nếu nói chung chung, ai cũng phản động có biết đâu chính anh ta là người phản động, phản dân, hại nước thì sao? Ví dụ, tham nhũng, lừa dân, hại nước có hay không? Cái đó là cái cụ thể của vấn đề. Nên không thể cáo buộc người ta một cách vu vơ được.
Còn chuyện nói người Campuchia bị người này người kia kích động thì cái đó họ cần nhìn ra cái sự kích động đó đúng hay sai. Dân, người ta có quyền đấu tranh đòi hỏi những sự thật cần phải được biết. Nếu anh ta là người sòng phẳng rõ ràng thì anh ta cứ mạnh dạng đứng ra trước công luận, giải thích rõ cho dân chúng, và nói rõ cho dân chúng về việc làm của nhà nước bây giờ để người ta khỏi nghi ngờ.
Cái đó, đòi hỏi người cầm quyền phải nhìn nhận trước, thật sự đã phục vụ cho dân hay chưa. Nhà nước thật sự của dân và do dân hay vì dân hay chưa. Họ cần thấy được điều đó đã chứ không nên nói chung chung cáo buộc người ta. Họ có quyền hoạt động, tôi cũng có quyền hoạt động. Họ có quyền lo cho dân thì tôi cũng có quyền lo cho dân.”
Trước hết, chính phủ cần phải nghiên cứu nguyên nhân dẫn đến người dân biểu tình phản đối chính phủ, hay chống Việt Nam. 
-TS Sok Touch
Theo Tổng cục trưởng Neth Savoeun, thế lực cực đoan này trước đó đã tập hợp biểu tình chống chính phủ, nay đang xúi giục, gây rối, làm mất an ninh trật xã hội với mục đích gây mâu thuẫn, thù hận giữa Campuchia và Việt Nam.
Nhưng do có sự lãnh đạo của chính phủ hiện nay và sự góp phần ủng hộ của chính phủ Việt Nam, chính phủ Campuchia đã đảm bảo được hòa bình, an ninh xã hội.
Phát biểu của Tổng cục trưởng Neth Savoeun, dường như đi ngược với quan điểm của Thủ tướng Hun Sen là chấm dứt sự xuyên tạc, bôi nhọ và chụp mũ lẫn nhau sau khi hai đảng đã đồng ý cùng làm việc trong Quốc hội.
Trước đó, Chủ tịch Quốc hội Heng Samrin cũng khẳng định rằng các hoạt động tụ tập, biểu tình của người dân Campuchia và cộng đồng Khmer Krom gần đây là phù hợp với luật pháp.
Tiến sĩ Sok Touch, Quyền Giám đốc viện Nghiên cứu thuộc Học viện Hoàng gia Campuchia cho rằng luật pháp Campuchia cho phép mọi công dân có quyền tự do biểu đạt, và biểu tình bất bạo động.
Theo ông, chính phủ Việt Nam cần xem xét về những đề nghị chính quyền Campuchia có các biện pháp ngăn chặn các hoạt động biểu tình và gọi đó là hành động sai trái, phá hoại quan hệ láng giềng vì công dân Việt Nam cũng từng biểu tình chống Trung Quốc.
Tiến sĩ Sok Touch chia sẻ: “Trước hết, chính phủ cần phải nghiên cứu nguyên nhân dẫn đến người dân biểu tình phản đối chính phủ, hay chống Việt Nam. Sau đó, hãy xem xét số lượng người tham gia biểu tình trước khi cáo buộc họ muốn lật đổ chính phủ. Trước đây, có gần triệu người biểu tình nhưng bị chính phủ cấm. Chính phủ chỉ muốn lấy cớ này để đàn áp và khống chế tinh thần người biểu tình vì muốn lật đổ Việt Nam hay Campuchia cần lực lượng hàng triệu người và cần có khu tự trị.”
Theo báo cáo của Tổng cục Cảnh sát Campuchia, tính từ giữa năm 2013 đến tháng 6/2014 đã xử lý 26 vụ tội phạm xuyên biên giới của hai nước; có 7 nghi phạm người Việt Nam được đưa ra tòa Campuchia. Trong khi đó, phía Campuchia đã trục xuất 159 người Việt vượt biên trái phép về nước, còn phía Việt Nam đã bắt trục xuất về Campuchia 414 người vượt biên sang Việt Nam.
Quốc Việt tường trình từ Campuchia.

Sunday, 28 December 2014

Nhà Văn Nguyễn Quang Lập

Nhà văn Nguyễn Quang Lập

Nhà văn Nguyễn Quang Lập, chủ blog Quê Choa
Nhà văn Nguyễn Quang Lập, chủ blog Quê Choa
Que Choa














Vụ bắt giữ nhà văn Nguyễn Quang Lập còn được biết dưới cái tên Bọ Lập chủ trang blog Quê Choa đã làm dư luận nổi sóng. Mặc dù trong giới văn nghệ sĩ không hiếm người ganh ghét tài năng và sự nổi tiếng của anh nhưng số lớn hơn nhiều lần trong họ lại có thái độ trân trọng nhà văn tài năng này qua hàng trăm bài viết chia sẻ sự bất bình của họ trước một đồng nghiệp bị bắt vì lý do hết sức ngây ngô: tuyên truyền chống đối chế độ.
Nếu một nhà văn bị xem là chống đối chế độ vì loan tải những bài viết phê phán các bất công, tiêu cực trong những công trình xây dựng hay bùa phép gây mất mát hàng ngàn tỷ ngân sách là có tội với quốc gia thì có lẽ cách diễn giải luật pháp của nhà nước qua điều 88 đang dẫm đạp lên chứ không phải thi hành luật pháp.
Bọ Lập nổi tiếng không phải là một người đấu tranh dân chủ. Anh không phải là người hoạt động chính trị và nhất là chưa bao giờ viết bất cứ một văn bản nào cổ súy cho tinh thần đấu tranh mang ý nghĩa của một cuộc cách mạng, cho dù cách mạng mềm hay cứng và dưới hình thức nào. Anh tự nhận là mình thiếu can đảm và chỉ là một nhà văn, một blogger bất bình trước các vấn đề nóng bức của đất nước mà đem trang blog Quê Choa chuyên chở các ý tưởng mà anh thấy không thể có vấn đề nghiêm trọng nào đáng cho nhà nước kết án, dẫn đến việc bắt giữ anh.
Sứ mệnh, trách nhiệm của người cầm bút
Bọ Lập từng nói với chúng tôi:
Nguyễn Quang Lập: Trước đây "Quê Choa" chỉ lập ra để viết văn chương cho vui thôi chứ không nói chuyện thời sự báo chí gì đâu, nhưng dần dà thấy nhiều chuyện chướng tai gai mắt quá, mình là thằng nhà văn mà không lên tiếng thì chẳng ra làm sao cả, thế nên tôi buộc phải lên tiếng thôi chứ còn lúc đầu chỉ làm một blog văn chương cho vui chứ không có ý định làm cái gì cả. Nhưng dần dần cuộc sống nó đập vào mình, nó buộc mình phải lên tiếng. Nếu không lên tiếng thì mình thấy nó thế nào! Không được! Không xứng đáng là một thằng nhà văn! Buộc phải lên tiếng.
Trang blog Quê Choa từ khi khai sinh tới nay đã là vùng đất vun đắp cho biết bao bài viết giá trị bằng số lượng người xem đáng kinh ngạc. Bắt nguồn từ cách tiếp cận với công nghệ thông tin, Bọ Lập đã thấy được ảnh hưởng của một trang blog nếu mang đúng hơi thở thời đại, tức là những sinh hoạt chính trên lòng lề đường thời sự chứ không nằm ở những suy tư có tính triết học: trăn trở một mình, một bóng đêm, hay một số phận.
Bọ Lập mang nhiều số phận, nhiều hình ảnh, nhiều chân dung của từng con người thật vào sách của anh để giới thiệu tới những con người, những “số phận” không kém phần nghiệt ngã khác. Sách của anh đậm đặc nhân văn, blog của anh đầy ắp thời sự, cả hai làm cho người đọc yêu mến và cả hai làm cho không ít người khó chịu, đặc biệt khi họ đánh hơi thấy có hình ảnh của họ trong đó.
Hình ảnh của họ là ai? Là những quan liêu hách dịch, những trợ lý luồn cúi xu nịnh. Những lãnh đạo đầu ngắn nhưng bao tử quá to. Những cấu kết ma quỷ giữa thế lực này với nhóm lợi ích kia. Những con người khi thức dậy việc đầu tiên là nghĩ tới tiền, tới hợp đồng tới lừa lọc.
Trước đây "Quê Choa" chỉ lập ra để viết văn chương cho vui thôi chứ không nói chuyện thời sự báo chí gì đâu, nhưng dần dà thấy nhiều chuyện chướng tai gai mắt quá, mình là thằng nhà văn mà không lên tiếng thì chẳng ra làm sao cả, thế nên tôi buộc phải lên tiếng thôi
Nguyễn Quang Lập
Những con người ấy chằm chằm theo dõi Quê Choa và dĩ nhiên Bọ Lập phải biết nhưng đề phòng họ đến bắt thì Bọ rất chủ quan vì nghĩ mình tàn tật và không ai có can đảm đi bắt một người vô hại như anh.
Nguyễn Quang Lập: Tôi không bị mọc đuôi! Đơn giản là vì tôi què tôi có chạy đàng trời nếu có ai người ta muốn bắt. Họ theo tôi làm gì! Nhưng tôi biết có một sự khó chịu, một sự khó chịu nào đó, mơ hồ, nhưng cụ thể thì không có.
Dư luận phản ứng
Văn nghệ sĩ là giới nhạy cảm trước thân phận con người, cái làm nên tác phẩm, vì vậy đã rất bất bình với tấm thân xiêu vẹo của anh trong nhà giam. Nhà văn Tô Nhuận Vỹ, nguyên Tổng biên tập báo Sông Hương cho việc bắt giữ một người lâm trọng bệnh như thế là ngu muội và tàn nhẫn, ông nói:
-Riêng việc một nhà văn đang bị bệnh, một nhà văn có tiếng đã đóng góp trong văn học nghệ thuật đối với đất nước trong sáng tác, tôi nói về mặt sáng tác cái đã mà bắt họ là hoàn toàn không nên một tí nào và không tốt.
Về mặt sáng tác còn mặt hoạt động xã hội tôi sẽ nói sau, một người có đóng góp lớn, đang bị bệnh mà bắt thì lợi bất cập hại đối với những người bắt. Ngay bản thân nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là người trong Bộ chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam mà khi có một bài thơ tâm huyết thậm chí nhạy cảm thì gửi duy nhất cho Quê Choa thì có nghĩa là bản thân của Quê Choa không có gì quá đáng. Cũng có nghĩa là bản thân Quê Choa không có gì là tệ hại và đứng về mặt yêu nước của nó thì Bọ Lập có tâm huyết.
Cho nên nói một cách nhẹ nhàng thì những người chủ trương bắt Lập chỉ có thể nói khù khờ và ngu dại.
Con người của Bọ Lập chắc chắn không thể bị quên lãng cho dù anh có bị buộc phải ngồi tù bao nhiêu năm đi nữa. Lịch sử văn học Việt Nam cho thấy sự bắt bớ, đàn áp và tiêu diệt người sáng tác có tư tưởng đối lập luôn có kết quả ngược lại.
Một người có đóng góp lớn, đang bị bệnh mà bắt thì lợi bất cập hại đối với những người bắt...Cho nên nói một cách nhẹ nhàng thì những người chủ trương bắt Lập chỉ có thể nói khù khờ và ngu dại
Nhà văn Tô Nhuận Vỹ
Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo, một người bạn vong niên của Bọ Lập cũng không thể chấp nhận cách bắt người này ông cho biết:
-Việc bắt Nguyễn Quang Lập tôi cũng quá bất ngờ bởi vì anh Lập không những là một nhà văn và một người nổi tiếng mà viết lách rất ôn hòa, có cá tính mạnh nhưng thái độ lại rất ôn hòa. Hai nữa là anh ấy đang bệnh vì liệt nửa người nên tôi vẫn nghĩ cấn phải có cách nào tốt hơn bởi khống chế người ta qua cách họ phát biểu hay đăng những bài viết của người khác có tính phản biện mà bắt người thì làm cho gia đình rất là lo lắng và bạn bè cũng như dư luận người ta thấy là không nên làm mà phải có nhân văn, thiện tâm đối với người bệnh nó gây một chấn động không hay.
Còn nhà thơ Đỗ Trung Quân một trong vài người bạn chân tình của Bọ Lập trước khi bị bắt cho biết ông không ngạc nhiên. Nhà thơ cho rằng không bắt Bọ Lập mới là chuyện đáng ngạc nhiên. Một nhận xét chua chát nhất mà chúng tôi nhận được từ các nhà văn thân hữu của Bọ Lập:
-Tất cả những cái mà Lập đưa lên trang blog mà chúng ta thấy của những người viết khác nhau. Vị trí tên tuổi nghể nghiệp khác nhau như là một con đò chở vấn đề. Có những vấn đề khác nhau rất nhiều nhưng suy cho cùng đó là phản biện đưa đến một kết quả đúng đắn nhất cho một xã hội tốt đẹp. Tôi không có cảm giác bất cứ cái gì về những bài của Lập đưa nhưng nhà nước này không phản ứng tôi mới lấy làm lạ. Phản ứng là đúng bởi vì một nhà nước trong thể chế như thế này, với những điều luật như 258, như 88 thì không có gì mới là chuyện lạ. Cá nhân tôi không thấy là chuyện lạ.
Nguyễn Quang Lập không đề phòng được người vào thăm trang blog Quê Choa tăng lên tới con số 100 triệu lượt người xem. Con số khổng lồ này có lẽ là nguyên nhân trực tiếp việc bắt chủ nhân
Chúng tôi vẫn đùa với nhau như thế này: Chúng tôi là những tù nhân dự bị. Có một câu chuyện rất hay, trong một bữa tiêc của một người bạn khác anh không làm nghề viết lách mà chỉ là người kinh doanh bình thường anh nói “ngay khi tôi chọn một thái độ im lặng, không phản kháng không xuống đường thì thật ra tôi đã ngồi trong một nhà tù nhỏ trong nhà tù lớn. Bởi vì khi tôi chọn thái độ đó thì nỗi sợ hãi đã giam cầm tôi rồi”. Câu chuyện đó có thể khái quát lên rằng chúng tôi tự hiểu mỗi người tự cố làm hết sức mình cho đất nước cho xã hội còn điều gì nó đến thì phải đón nhận nó một cách bình tĩnh bởi vì chúng tôi ở cái tuổi không còn nông nỗi mà không suy nghĩ. Mà khi cái gì thấy đúng, lẽ phải thì chúng tôi chọn lựa nó và sự chọn lựa nào cũng có giá của nó cả.
Nỗi sợ của người cầm quyền
Nguyễn Quang Lập không đề phòng được người vào thăm trang blog Quê Choa tăng lên tới con số 100 triệu lượt người xem. Con số khổng lồ này có lẽ là nguyên nhân trực tiếp việc bắt chủ nhân của nó và bắt đầu từ ngày 6 tháng 12 Quê Choa đã trở thành quá khứ.
Nhà văn Thùy Linh nhận xét việc bắt Bọ Lập chỉ do tâm lý hoảng loạn của những người đang nắm quyền lực và bà cũng nhận xét rằng việc bắt bớ ấy sẽ không làm cho những người có cách làm việc như Bọ Lập chùn bước:
-Việc nhà nước bắt anh Nguyễn Quang Lập đúng là nó gây ra chấn động bởi vì anh Lập thực sự không đáng là người phải chịu sự đối xử bất công đến mức như thế. Bởi vì nếu theo con mắt nhà nước thì sự nguy hiểm có lẽ nhiều người con nguy hiểm hơn anh Lập nhiều nhưng không hiểu sao họ lại lựa chọn anh Lập. Có thể một phần vì ảnh hưởng của blog Quê Choa nó đến được rất đông đảo độc giả. Chúng ta không thể phủ nhận ảnh hưởng của cá nhân anh Lập đối với tiếng nói phản biện trong nước cho nên họ hoảng sợ, lo sợ.
Trong chừng mực nào đó nó giống như hành vi trả thù. Trả thù những tiếng nói, con người không chịu khuất phục. Việc này trong ngắn hạn có thể sẽ gây ra những lo âu trong giới cầm bút hay giới đấu tranh dân chủ nói chung nhưng về lâu dài tôi nghĩ điều đó không khiến người ta sợ hãi, chùn bước.
Thực tế cho tới giớ phút này có rất nhiều vụ bắt bớ đã xảy ra nhưng mà những tiếng nói đấu tranh dân chủ hay những hoạt động thì không hề có sự giảm bớt mà thậm chí có xu hướng ngày càng nhân rộng ra vì vậy việc bắt bớ của chính quyền đương nhiên phản tác dụng và người ta càng thấy rõ sự bế tắc trong biện pháp đối thoại của chính quyền đối với tiếng nói dân chủ. Cái sự bắt bớ này hoàn toàn là sự bế tắc.
Nhà văn Nguyễn Quang Lập từng nhận xét nhiều văn nghệ sĩ đã bị đối xử rất bất công như Phùng Quán trước đây hay Tống Văn Công ngày nay. Hai con người này đã khiến anh băn khoăn cho số phận của những ngòi bút chân chính. Lấy sự thật làm căn bản và khát khao mang sự thật ấy ra ánh sáng là lẽ sống của họ lại bị nhìn một cách méo mó và bất công:
Có thể một phần vì ảnh hưởng của blog Quê Choa nó đến được rất đông đảo độc giả. Chúng ta không thể phủ nhận ảnh hưởng của cá nhân anh Lập đối với tiếng nói phản biện trong nước cho nên họ hoảng sợ, lo sợ.
Nhà văn Thùy Linh
Nhà văn Nguyễn Quang Lập: Cá nhân tôi nhận xét Phùng Quán ngoài là một nhà thơ ông là người có tính công dân rất mạnh. Và tất cả những bài thơ anh hay nói mạnh mẽ ví dụ như “Chống tham ô lãng phí” hay “Lời mẹ dặn”, chỉ vì tính công dân mạnh và anh ấy muốn góp ý cho Đảng, cho xã hội những tiếng nói trung thực nhất của một nghệ sĩ. Thế nhưng có người đã cố tình hiểu nhầm ý tốt đẹp của Phùng Quán.
Riêng điều này tôi có nghĩ đến Tống Văn Công, một đảng viên, một tổng biên tập làm cách mạng bao nhiêu năm chứ có xa lạ gì, rất có tâm huyết mà cũng bị người khác cố tình hiểu sai hiểu chệch nó đi và quy kết ông ta quá nặng nề (là mưu đồ, thù nghịch…). Nếu làm như thế thì tất cả những kẻ sĩ ở nước Nam này mà muốn có tiếng nói trung thực với Đảng sẽ sợ không dám nói gì cả. Bản thân tôi cũng sợ không dám nói nữa, thật sự là thế. Khi trung thực góp ý thì có ý sai ý đúng. Ý đúng thì xem xét, ý sai thì không nghe và cùng lắm thì mắng lại người ta chứ quy kết người ta là không được.
Dù cẩn thận và đề phòng nhưng Bọ Lập vẫn chủ quan nghĩ mình đang làm những việc đúng đắn, cần làm trong guồng máy đang thiếu những nhân tố như anh. Anh không biết rằng chính anh là nhân tố cản đường thăng tiến của quyền lực chứ không phải ngược lại như anh và hàng triệu người đang nghĩ.
Thật đáng buồn cho thân phận nhà văn Việt Nam, nhất là những nhà văn tốt, có tâm huyết với ngòi bút và nhân vật của mình.

VIỆT NAM 2014

Trong năm 2013, tình hình nhân quyền ở Việt Nam xấu hẳn đi, khiến xu hướng tụt dốc đã biểu hiện trong mấy năm qua càng trở nên trầm trọng hơn. Năm nay được đánh dấu bằng các đợt đàn áp nặng nề và nghiêm trọng nhằm vào những người chỉ trích chính quyền, trong đó có những nhà hoạt động ôn hòa bị kết án tù nhiều năm với “tội danh” là kêu gọi thay đổi chính trị.  
Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) tiếp tục duy trì chế độ cai trị độc đảng, được thiết lập từ năm 1975. Dù vẫn giữ được thế độc quyền về quyền lực nhà nước, đảng này đang phải đối mặt với nỗi bất bình đang ngày càng gia tăng của công chúng về sự thiếu vắng các quyền tự do cơ bản. Tình trạng người dân bị tước đoạt quyền lợi và tệ tham nhũng tràn lan được coi là các lực cản  đối với tiến bộ kinh tế và chính trị của Việt Nam. Đấu đá chính trị và những mối bất đồng về chính sách kinh tế trong nội bộ ĐCSVN trước yêu cầu cần giải quyết những khủng hoảng về tính chính danh và sự trì trệ của nền kinh tế đã tạo cơ hội cho công chúng nói lên ý kiến của mình, đặc biệt là qua các kênh truyền thông xã hội.  
Năm 2013 có sự gia tăng đáng kể các ý kiến phê bình qua báo chí mạng và các hình thức khác. Những người phê bình đã lên tiếng chất vấn chính sách nhà nước, vạch mặt quan chức tham nhũng, khiến nại việc tịch thu đất đai, bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, và kêu gọi các giải pháp dân chủ thay thế cho chế độ độc đảng. Một nỗ lực rất đáng ghi nhận là “Kiến nghị 72”, ban đầu do 72 nhà trí thức đứng tên nhưng sau đó được hơn 15.000 người cùng ký, kiến nghị sửa đổi hiến pháp để cho phép bầu cử đa đảng. Một nỗ lực khác là “Tuyên bố 258”, yêu cầu thay đổi điều 258 bộ luật hình sự (tội “lợi dụng tự do dân chủ”), một điều luật thường được áp dụng để trừng phạt những người thực thi quyền tự do ngôn luận.      
Chính quyền đã có một vài bước đi tích cực. Ngày mồng 7 tháng 11 năm 2013, Việt Nam ký Công ước về Chống Tra tấn của Liên Hiệp Quốc. Ngày 24 tháng 11 năm 2013, chính phủ ra nghị định hủy bỏ việc cấm tổ chức lễ cưới giữa những người đồng tính, dù những nội dung sửa đổi Luật Hôn nhân Gia đình theo chủ trương của chính phủ vẫn chưa chính thức công nhận hôn nhân đồng tính. Chính phủ cũng bắt đầu tiến trình hủy bỏ việc bắt giữ và cưỡng bức lao động đối với người mại dâm trong năm 2013.

Tù nhân chính trị và Hệ thống Tư pháp Hình sự

Vào thời điểm bản phúc trình này được viết, Việt Nam ước tính có khoảng 150 – 200 tù nhân chính trị, bao gồm cả người Kinh ở đồng bằng và những người dân tộc thiểu số vùng cao, mà nhiều người trong số họ bị bắt giữ với lý do có liên quan tới các hoạt động tôn giáo của mình. Trong tổng số nói trên có tính đến ít nhất là 63 tù nhân chính trị đã bị xử trong các phiên tòa bị điều khiển bằng mệnh lệnh chính trị trong năm 2013, một sự gia tăng so với tổng số khoảng 40 người bị ra tòa trong năm 2012, vốn đã cao hơn so với tổng số người bị kết án trong các năm 2011 và 2010.         
Các tòa án ở Việt Nam thiếu tính độc lập và khách quan theo yêu cầu của pháp luật quốc tế. Khi đảng hay chính phủ có lợi ích liên quan đến kết quả một vụ án, họ - chứ không phải sự thật và luật pháp – quyết định kết quả xử án. Các vụ xử thường vi phạm quy trình tố tụng và chứa đựng những điều bất thường khác nhằm mục tiêu áp đặt phán quyết đã định trước với mục đích chính trị. 
Các điều luật hình sự 79, 87, 88, 89, 91 và 258 thường được sử dụng nhiều nhất đối với những người đòi cải cách chính trị ôn hòa, dù các điều luật khác như luật thuế cũng được mang ra áp dụng. Ví dụ như, luật sư nhân quyền và blogger nổi tiếng Lê Quốc Quân bị bắt ngày 27 tháng 12 năm 2012, không lâu sau khi ông lên tiếng phê phán sự độc quyền chính trị của Đảng Cộng sản, nhưng việc bắt giữ ông được hợp thức hóa bằng tội danh trốn thuế ngụy tạo. Trước những yêu cầu đòi trả tự do cho ông từ trong nước và quốc tế, vụ xử ông đã bị hoãn, nhưng tới ngày mồng 2 tháng 10 năm 2013, ông bị xử 30 tháng tù.

Quyền Tự do Ngôn luận, Chính kiến và Thông tin

Rất nhiều cây bút độc lập, các blogger và các nhà hoạt động nhân quyền là đối tượng bị chính quyền đàn áp. Họ phải đối mặt với sự dọa nạt và sách nhiễu của công an, bị bắt giữ tùy tiện, giam giữ kéo dài không được tiếp xúc với nguồn trợ giúp pháp lý hay gia đình thăm nuôi, bị xét xử và kết án nặng nề. Để tăng cường thêm quyền lực của nhà nước vốn đã quá bao trùm trong việc trừng phạt hay ngăn chặn tự do thông tin trên mạng, vào ngày mồng 1 tháng 9 năm 2013, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký Nghị định 72 với các điều khoản hợp pháp hóa việc lọc và kiểm duyệt thông tin đồng thời gạt ra ngoài vòng pháp luật “các hành vi bị cấm” được định danh một cách mơ hồ. Nghị định này cũng cấm cá nhân không được tổng hợp tin tức trên blog hay trang mạng cá nhân.    
Đỉnh cao của xu hướng đàn áp blogger trong năm 2013 là các vụ bắt giữ Trương Duy Nhất và Phạm Viết Đào vì bị coi là vi phạm điều 258. Họ phải đối mặt với mức án có thể lên tới 7 năm tù nếu bị kết án.  

Quyền Tự do Nhóm họp, Lập hội và Đi lại 

Tất cả các đảng phái chính trị, công đoàn và tổ chức nhân quyền độc lập với chính phủ hay ĐCSVN đều bị cấm tại Việt Nam. Chính quyền quy định những cuộc tụ tập đông người phải xin phép trước, và từ chối không cấp phép cho những cuộc hội họp, diễu hành hay biểu tình vì lý do chính trị hay các lý do khác. Nếu những sự kiện đó vẫn diễn ra, những người tổ chức và tham gia nhiều khi bị trừng phạt. Trong năm 2013, biện pháp đó đã được áp dụng với những người phản đối chính sách đối nội và đối ngoại của chính phủ, và những người biểu tình phản đối các vụ được cho là cưỡng chiếm đất đai. 
Trong tháng Năm năm 2013, chính quyền ở ba thành phố đã can thiệp bằng bạo lực, tạm giữ và sách nhiễu đồng loạt để ngăn chặn và giải tán các buổi “dã ngoại nhân quyền” ôn hòa, tại đó các nhà hoạt động dự định sẽ phân phát và thảo luận về Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền và các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế khác.  
Chính quyền cũng liên tiếp ngăn chặn không cho những người phê phán chính phủ xuất ngoại, viện cớ vì nguyên nhân “an ninh quốc gia”. Các nhà trí thức nổi tiếng Huỳnh Ngọc Chênh và Nguyễn Hoàng Đức bị cấm xuất ngoại vào tháng Năm và tháng Bảy năm 2013.

Tự do Tôn giáo

Tháng Giêng năm 2013, thủ tướng ký Nghị định 92, gia tăng thêm quyền kiểm soát đối với các nhóm tôn giáo. Trong quá trình kiểm soát, chính quyền theo dõi, sách nhiễu và đôi khi dùng vũ lực đàn áp các nhóm tôn giáo hoạt động bên ngoài các tổ chức tôn giáo có đăng ký chính thức và do chính quyền quản lý. Trong năm 2013, các đối tượng bị đặt vào tầm ngắm gồm có các chi phái không được công nhận của đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, các nhà thờ Tin lành và Công giáo tại gia ở Tây nguyên và các nơi khác, các chùa Phật giáo Khmer Krom và Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất.
Vụ xét xử và kết án 14 người, hầu hết trong số đó là các nhà hoạt động Công giáo tại Toà án Nhân dân Tỉnh Nghệ An vào tháng Giêng năm 2013 mở màn cho đợt gia tăng đàn áp của chính quyền nhằm vào những người chỉ trích chế độ. Lần này phương tiện được sử dụng là điều 79 bộ luật hình sự, được áp dụng với các hành vi nhằm “lật đổ chính quyền”, dù 14 nhà hoạt động nói trên chỉ thực thi các quyền con người cơ bản, như tham gia các hoạt động thiện nguyện của nhà thờ hay các cuộc biểu tình chính trị ôn hòa.    

Bạo hành đối với tù nhân

Báo chí nhà nước và các nguồn khác tiếp tục đưa tin về nhiều vụ công an bạo hành, tra tấn, thậm chí sát hại tù nhân. Tháng Năm năm 2013, Nguyễn Văn Đức chết trong khi bị công an tỉnh Vĩnh Long tạm giam do “xuất huyết não, sọ bị nứt, não phải bị giập, tụ máu não trái, gãy hai xương sườn, và gãy xương ức”. Tổ chức Theo dõi Nhân quyền không biết có vụ điều tra nào được tiến hành về cái chết của anh Đức không.
Rất nhiều tù nhân chính trị bị đau ốm nhưng không được khám chữa bệnh đầy đủ. Một số người, như Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Văn Hải (Điếu Cày) và Hồ Thị Bích Khương đã tuyệt thực trong năm 2013 để phản đối việc mình bị tước đoạt các quyền của tù nhân đã được thế giới công nhận, như quyền được chăm sóc sức khỏe đầy đủ.

Sửa đổi Hiến pháp

Ngày 28 tháng 11 năm 2013, Quốc Hội thông qua bản hiến pháp sửa đổi, với nội dung làm thất vọng những người mong muốn sẽ có cải cách sâu rộng về hệ thống chính trị và kinh tế. Những nội dung sửa đổi do chính phủ đề nghị và đã được thông qua bao gồm các cam kết trên lý thuyết về nhân quyền nhưng vẫn còn chừa lại nhiều lỗ hổng luật pháp lớn. Bản hiến pháp sửa đổi còn xa mới đảm bảo được khả năng thúc đẩy và bảo vệ đối với rất nhiều quyền cơ bản. 

Bắt giữ Tùy tiện

Những người nghiện ma túy, kể cả trẻ vị thành niên, vẫn tiếp tục bị quản chế trong các trung tâm do chính phủ quản lý, nơi họ bị buộc lao động với những công việc nặng nhọc nhân danh “lao động trị liệu”. Việc quản chế họ không chịu sự giám sát tư pháp nào. Nếu vi phạm nội quy – trong đó có quy định về lao động – sẽ bị trừng phạt bằng cách đánh đập và giam vào phòng kỷ luật, và khi bị giam ở đó, theo lời các trại viên kể với Tổ chức Theo dõi Nhân quyền, họ bị cắt khẩu phần ăn uống.     

Các Đối tác Quốc tế Chủ chốt

Đối tác ngoại giao quan trọng nhất của Việt Nam là Trung Quốc và Hoa Kỳ, dù quan hệ với Nhật Bản, Liên minh Châu Âu (EU), Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á và Úc cũng quan trọng. 
Quan hệ với Trung Quốc trở nên phức tạp hơn trong năm 2013 vì tranh chấp chủ quyền trên biển, dù dường như điều quan trọng hơn với cả hai bên là mối quan tâm chung của cả hai đảng cộng sản nhằm duy trì quyền cai trị của mình.
Hoa Kỳ tiếp tục theo đuổi việc cải thiện quan hệ kinh tế và quân sự với Việt Nam, dù lệnh cấm bán thiết bị quân sự có khả năng sát thương vẫn giữ nguyên hiệu lực trong năm 2013. Hoa Kỳ có một số cố gắng trong việc gây sức ép yêu cầu Việt Nam cải thiện nhân quyền, nhưng vấn đề này không được nhấn mạnh trong các cuộc gặp giữa Tổng thống Barrack Obama và Chủ tịch Trương Tấn Sang vào tháng Bảy. Liên minh Châu Âu chỉ thể hiện những nỗ lực nửa vời về thúc đẩy sự tôn trọng nhân quyền, trong khi Nhật Bản vẫn im lặng và không sử dụng vị thế nhà tài trợ song phương lớn nhất của Việt Nam để công khai yêu cầu cải cách.   
Liên minh Châu Âu và Việt Nam vẫn đang tiếp tục đàm phán Hiệp định Thương mại Tự do, và vòng đối thoại nhân quyền thường niên lần thứ ba giữa hai bên đã diễn ra vào tháng Chín năm 2013. Vào tháng Tư năm 2013, Nghị viện Châu Âu đã thông qua một nghị quyết lên án những vi phạm nhân quyền đang tiếp diễn tại Việt Nam và yêu cầu Liên minh Châu Âu nêu quan ngại với chính quyền Việt Nam. Trong khi các quan chức cao cấp của Liên minh Châu Âu, như Cao ủy Catherine Ashton vẫn im lặng, thì phái đoàn ngoại giao EU tại Việt Nam đã ra văn bản công khai bày tỏ quan ngại về việc đàn áp những người bất đồng chính kiến, việc tiếp tục giữ nguyên án tử hình, và hạn chế thông tin trên mạng với Nghị định 72.

Vietnam

A man holds a poster with the image of lawyer Le Quoc Quan during a mass calling for Quan to be freed at Thai Ha church in Hanoi on September 29, 2013. © 2013 Reuters
The human rights situation in Vietnam deteriorated significantly in 2013, worsening a trend evident for several years. The year was marked by a severe and intensifying crackdown on critics, including long prison terms for many peaceful activists whose “crime” was calling for political change.
The Communist Party of Vietnam (CPV) continued its one-party rule, in place since 1975. While it maintained its monopoly on state power, it faced growing public discontent with lack of basic freedoms. Denial of rights and endemic official corruption are widely seen as stifling Vietnam’s political and economic progress. Political infighting and economic policy disagreements within the CPV about how to handle the crisis of legitimacy and economic stagnation created an opening for members of the public to offer their opinions, particularly through social media.
The year saw a significant expansion of critical commentary in digital and other media. Critics questioned official policies, exposed official corruption, protested land-grabs, defended religious freedom, and called for democratic alternatives to one-party rule. One remarkable effort was “Petition 72,” originally signed by 72 intellectuals but later signed by some 15,000 people, calling for constitutional changes to allow multi-party elections. Another was “Statement 258,” calling for reform of article 258 of the penal code (“abusing democratic freedoms”), a provision often used to punish freedom of speech.
The government took some positive steps. On November 7, 2013, Vietnam signed the UN Convention Against Torture. On September 24, 2013, it issued a decree ending administrative sanctions for same-sex wedding ceremonies, although government sponsored amendments to the Marriage and Family Law did not grant legal recognition to same-sex marriage. The government also began phasing out detention and forced rehabilitation of sex workers in 2013.

Political Prisoners and the Criminal Justice System

Vietnam had an estimated 150-200 political prisoners at time of writing, including lowland Vietnamese and upland ethnic minority prisoners, some of whom were detained at least in part in connection with their religious activities. The total included at least 63 political prisoners convicted by politically controlled courts in 2013, an increase over the roughly 40 sentenced in 2012, which in turn exceeded the numbers sentenced in 2011 and 2010.
Vietnamese courts lack the independence and impartiality required by international law. Where the party or government has an interest in the outcome of a case, they—not the facts and the law—dictate the outcome. Trials are often marred by procedural and other irregularities that go along with achieving a politically pre-determined outcome.
The penal code provisions used most often against proponents of peaceful political change are articles 79, 87, 88, 89, 91, and 258, though other laws, such as tax laws, are also used. For example, prominent human rights lawyer and blogger Le Quoc Quan was arrested on December 27, 2012, shortly after he criticized the Communist Party’s political monopoly, but his arrest was justified by trumped up charges of tax evasion. Following domestic and international calls for him to be released, his trial was delayed but on October 2, 2013, he was sentenced to 30 months’ imprisonment.

Freedom of Expression, Opinion, and Information

Government repression targets many independent writers, bloggers, and rights activists. They face police intimidation, harassment, arbitrary arrest, prolonged detention without access to legal counsel or family visits, court convictions, and often severe prison sentences. Enhancing already extensive government powers to punish and otherwise deter digital freedom, Prime Minister Nguyen Tan Dung on September 1, 2013, put into force Decree 72, which contains provisions legalizing content-filtering and censorship, and outlawing vaguely defined “prohibited acts.” It also forbids individuals from synthesizing news on their blogs or personal websites.

The 2013 persecution of bloggers was highlighted by the arrests of Truong Duy Nhat and Pham Viet Dao for allegedly violating article 258. They face up to seven years in prison if convicted.

 Freedom of Assembly, Association, and Movement

Vietnam bans all political parties, labor unions, and human rights organizations independent of the government or CPV. The authorities require official approval for public gatherings and refuse to grant permission for meetings, marches, or protests they deem politically or otherwise unacceptable. If such events go ahead, organizers and participants are sometimes punished. In 2013, such measures were applied to individuals who questioned government domestic and foreign policies and to individuals who demonstrated against alleged land-grabs.
In May 2013, authorities in three Vietnamese cities intervened with violence, temporary arrests, and concerted harassment to prevent and break up peaceful “human rights picnics” at which activists planned to disseminate and discuss the Universal Declaration of Human Rights and other human rights standards.
The government also repeatedly prevented critics from making trips outside Vietnam, citing “national security reasons.” Prominent intellectuals Huynh Ngoc Chenh and Nguyen Hoang Duc were prohibited from going abroad in May and July 2013.

Freedom of Religion

In January 2013, the prime minister put Decree 92 into effect, further extending controls on religious groups. In its enforcement actions, the government monitors, harasses, and sometimes violently cracks down on religious groups that operate outside of official, government-registered and government-controlled religious institutions. Targets in 2013 included unrecognized branches of the Cao Dai church, the Hoa Hao Buddhist church, independent Protestant and Catholic house churches in the central highlands and elsewhere, Khmer Krom Buddhist temples, and the Unified Buddhist Church of Vietnam.
The January 2013 conviction and imprisonment of 14 mostly Catholic activists by the People’s Court of Nghe An province initiated the year’s upsurge of government attacks on critics. The vehicle this time was article 79 of the penal code, prohibiting activities aimed at “overthrowing the government,” even though the 14 activists were exercising fundamental human rights, such as participating in volunteer church activities and peaceful political protests.

Abuses in Detention and Prison

Official media and other sources continue to report many cases of police abuse, torture, or even killing of detainees. In May 2013, Nguyen Van Duc died in the custody of Vinh Long province police due to “brain bleeding with cracks on his skull, crushed right brain, blood-clotted left brain, two broken ribs, and broken sternum.” Human Rights Watch is unaware of any investigation into his death.
Many political prisoners suffer from poor health but do not receive adequate medical attention. Several, such as Cu Huy Ha Vu, Nguyen Van Hai (Dieu Cay), and Ho Thi Bich Khuong, went on hunger strikes in 2013 to protest denial of their internationally recognized prisoner’s rights, such as adequate medical care.

Constitutional Amendment

On November 28, 2013, the National Assembly adopted an amended constitution, the provisions of which disappointed those hoping for significant reforms to the political and economic system. Government-proposed amendments that were approved include rhetorical commitments to human rights, but they leave serious loopholes in place. The amended constitution falls far short of ensuring effective promotion and protection of many fundamental rights.

Arbitrary Detention

People dependent on drugs, including children, continued to be held in government detention centers where they are forced to perform menial work in the name of “labor therapy.” Their detention is not subject to judicial oversight. Violations of the rules—including the work requirement—are punished by beatings and confinement to disciplinary rooms, where detainees told us they were deprived of food and water.

Key International Actors

Vietnam’s most important foreign relations are with China and the United States, but linkages with Japan, the European Union, the Association of Southeast Asian Nations, and Australia are also significant.
Vietnam’s relationship with China was complicated in 2013 by maritime territorial disputes, though perhaps more important for both was the shared commitment by each country’s communist parties to maintain their rule.
The United States continued to pursue improved military and economic relations with Vietnam, although an American ban on the sale of lethal military equipment remained in place in 2013. The US made some efforts to press Vietnam to improve its human rights record, but the issue was not prominent in meetings between President Barack Obama and President Truong Tan San in July. The EU made only tepid efforts on promoting respect for rights, while Japan remained silent and failed to use its status as Vietnam’s largest bilateral donor to publicly press for reforms.
The EU and Vietnam continued negotiations on a Free Trade Agreement and a third round of their annual human rights dialogue took place in September 2013. In April 2013, the European Parliament adopted a resolution condemning continuing human rights violations in Vietnam and called on the EU to raise concerns with Vietnamese authorities. While high level EU officials, such as EU High Representative Catherine Ashton were silent, the EU delegation to Vietnam issued public statements expressing concern over the crackdown on dissidents, the resumption of execution as a criminal penalty, and the cyber restrictions of Decree 72.


Saturday, 20 December 2014

Khi công lý bị tra tấn

Khi công lý bị tra tấn


nguyen-van-chuong-2-622.jpg
Cháu Nguyễn Thị Thanh Hải con gái của tử tù Nguyễn Văn Chưởng, khi bố bị bắt còn đang nằm trong bụng mẹ, lớn lên đi đi kêu oan cho bố.
Courtesy photo



Tình trạng án tử hình do bị xử oan sai đã và đang làm hình ảnh luật pháp Việt Nam méo mó. Nhiều bản án tử hình đến từ lời nhận tội của nạn nhân do bị tra tấn, sách nhiễu hành hạ chính bản thân họ và gia đình đã gây làn sóng căm phẫn trong nhiều làng quê nơi mà các đơn vị điều tra luôn lấy chỉ tiêu phát hiện tội phạm làm đầu bất kể bằng chứng khả tín của vụ án. Mặc Lâm tìm lại vụ án của từ tù Nguyễn Văn Chưởng, người sắp bị tử hình trong thời gian ngắn sắp tới với những nhân chứng liên quan.
Trong một thời gian ngắn các vụ án oan sai lần lượt được người dân đưa lên mạng xã hội gây sự chú ý cho toàn cộng đồng và các nghi vấn trong quá trình điều tra tạo cho dư luận những câu hỏi về tính trong sáng của hệ thống luật pháp Việt Nam ngày càng nhiều hơn.
Vụ án mới nhất vừa được Chủ tịch nước Trương Tấn Sang yêu cầu ngưng thi hành bản án tử hình đối với tử tù Hồ Duy Hải và điều tra lại từ đầu đã phần nào nói lên sự cẩu thả thậm chí mang tính o ép và bức cung, tra tấn phạm nhân nhằm đạt cho được chỉ tiêu mà hệ thống đưa ra cho từng tòa án.

Tử tù Nguyễn Văn Chưởng

Trong phiên tòa xét xử sơ thẩm họ không đưa ra một bằng chứng gì xác thực chứng tỏ Chưởng tham gia giết người. Các hung khí của hung thủ cũng không có. Những hung khí nó bảo là kiếm đao chém người hoàn toàn không có. 
-Nguyễn Trường Chinh
Ngay sau kết quả này người ta lập tức quay sang chú ý một vụ án khác mà tử tội đang chờ tử hình trong trại giam công an thành phố Hải Phòng còn bên ngoài là cha mẹ nạn nhân hàng ngày ngồi trước tượng đài Lý Thái Tổ Hà Nội kêu oan cho con.
Người tử tù có tên Nguyễn Văn Chưởng, sinh năm 1983 thường trú tại xã Bình Dân, Kim Thành Hải Dương bị kết án tử hình trong vụ án của thiếu tá công an Nguyễn Văn Sinh bị giết chết vào 9 giờ đêm 14 tháng 7 năm 2007 tại Hải An thành phố Hải Phòng.
Trong phiên tòa sơ thẩm xử vào ngày 12 tháng 6 năm 2008 TAND thành phố Hải Phòng tuyên án tử hình Nguyễn Văn Chưởng mặc dù anh phủ nhận toàn bộ lời khai của mình và nói do bị công an tra tấn quá nặng nên buộc phải ghi lời khai theo ý của điều tra viên. Tuy nhiên tòa không ghi nhận yếu tố này và bản án được thi hành.
Trong phiên tòa này Viện kiểm sát đã không trưng ra được bất cứ hung khí gây án nào mặc dù vết thương làm cho nạn nhân tử vong là do dao chém.
Ông Nguyễn Trường Chinh, cha của tử tù Nguyễn Văn Chưởng cho biết:
Nói chung trong phiên tòa xét xử sơ thẩm họ không đưa ra một bằng chứng gì xác thực chứng tỏ Chưởng tham gia giết người. Các hung khí của hung thủ cũng không có. Những hung khí nó bảo là kiếm đao chém người hoàn toàn không có.
nguyen-van-chuong-400.jpg
Ông Nguyễn Trường Chinh và bà Nguyễn Thị Bích, bố mẹ của tử tù Nguyễn Văn Chưởng. Courtesy photo.
Quay lại hung khí gây án, một bài báo của tờ Đời sống Pháp luật phỏng vấn Thiếu tướng công an Đỗ Hữu Ka người được xem là chủ đạo trong việc điều tra vụ án đã nói với phóng viên rằng hung khí là hai con dao được nghi can đem bán ngoài chợ và khi hỏi cung nghi can cho biết là đã dùng nó để chém nạn nhân.
Có điều rất lạ là tại sao trong lúc vụ án đã truyền bá trên hệ thống báo đài của Hải Phòng một cách rầm rộ mà nghi can lại can đảm mang hung khí sát nhân ra chợ bán để đến nỗi bị công an phát hiện và bị bắt. Câu hỏi thứ hai tại sao có hung khí rồi mà vẫn không trình ra trước hội đồng xét xử như một tang chứng gây án vậy mà tòa vẫn không đặt câu hỏi đối với bên khởi tố là Viện Kiểm sát?

Lời “khai” của Thiếu tướng Đỗ Hữu Ka

Thiếu tướng Đỗ Hữu Ka kể chuyện ông điều tra tội phạm một cách rất đơn giản. Nghi can bán dao ngoài chợ bị bắt vào và ông hỏi câu đầu tiên là dùng gì để bọc con dao ấy, nghi can trả lời là giấy bao xi măng, thế là phù hợp với tờ giấy xi măng mà công an tìm thấy tại hiện trường và ông Thiếu tướng công an này quyết định đây chính là tên giết người.
Tờ giấy xi măng ấy cũng không được trình ra trước tòa để hội đồng xét xử quyết định sự liên quan giữa tang vật gây án cùng với nhân thân thủ phạm cũng như hàng chục yếu tố khác có dính líu trực tiếp hay gián tiếp tới nhau.
Mất dấu vết tang vật hay sử dụng tang vật giả là nhân tố đầu tiên cho những vụ án có kết quả từ mớm cung, bức cung. Trong vụ án Hồ Duy Hải tang vật là tấm thớt và con dao gây án được công an mua ngoài chợ trình trước tòa để kết tội bị cáo vì tang vật tại hiện trường bị mất. Hành vi này cho thấy mức độ chuyên môn của cơ quan điều tra là có vấn đề và việc tự tiện liên kết những phát biểu của một lãnh đạo công an cao cấp có thể dẫn tới những kết luận quy chụp và hoàn toàn đi ngược lại với pháp luật.

Bẻ cong lý lịch bị cáo

Hội đồng xét xử luôn dễ bị qua mặt bởi những dòng tiểu sử ngụy tạo do điều tra viên viết trong bản cáo trạng. Anh Nguyễn Văn Chưởng là công nhân làm việc tại công ty xuất nhập khẩu Đại Quang thành phố Hải Phòng nhưng trong bản cáo trạng công an cho anh là chủ quán cà phê đèn mờ Thiên Thần và là một con nghiện ma túy nặng. Hình ảnh này lập tức tác động lên tư tưởng của hội đồng xét xử gây cho họ thành kiến ngay từ đầu đối với bị cáo mà thật ra nhân thân anh Nguyễn Văn Chưởng hoàn toàn không phải như vậy.
Trước khi bắt còn hỏi nhà có ai làm công an không, có ai làm ở chính phủ không có ai làm quan chức không, có ai đi công tác không...người ta bảo không, người ta là nông dân… thế rồi bắt đầu kiểm tra căn cước, bắt dầu sinh ra vụ án này. 
-LS Hoàng Việt
Em trai anh Chưởng và cũng là một nạn nhân của vụ án cho biết sự thật này:
Đấy là một lời vu khống, em khẳng định đấy là vu khống bởi vì anh trai của em là một người có công ăn việc làm đầy đủ. Vẫn làm việc tại công ty xuất nhập khẩu thành phố Hải Phòng. Hai anh em em cùng làm tại một công ty nếu mà nghiện thì trông nó phải khác nhưng anh trai em vẫn béo tốt bình thường, Da dẻ hồng hào chẳng có một biểu hiện gì là nghiện cả. Em biết chính xác ảnh không nghiện bởi vì hai anh em có nhiều thời gian bên cạnh nhau.
Luật sư Hoàng Việt, người bào chữa cho Nguyễn Văn Chưởng nghi ngờ các động thái của công an trong vụ án khi chính họ hỏi han những yếu tố nằm ngoài nội dung điều tra một cách đáng ngờ:
Trước khi bắt còn hỏi nhà có ai làm công an không, có ai làm ở chính phủ không có ai làm quan chức không, có ai đi công tác không...người ta bảo không, người ta là nông dân… thế rồi bắt đầu kiểm tra căn cước, bắt dầu sinh ra vụ án này. Cho nên tôi thấy nhiều tình tiết đáng ngờ lắm anh ạ.
Chúng tôi về tận quê của Chưởng để hỏi những người dân. Những người ăn mít thì bảo là nhớ có cái hôm ấy nhưng mà chúng tôi không nói đâu! tức là họ né bởi vì họ cũng bị công an ở Hải Phòng về đấy làm việc rồi, đe rồi một hai gọi lên từng người giữ đến tận tối nên họ ngại.

Ngăn trở luật sư để tiện bức cung?

Không những thế công an còn cố tình cản trở sự có mặt của luật sư trong khi điều tra nghi phạm. Luật sư muốn tham gia đã phải chờ đợi gần ba tháng trời mới có được giấy phép quyền bào chữa. Ông Nguyễn Trường Chinh cha của anh Chưởng cho biết:
Thằng Đoàn bị bắt mùng 10 thì 14 tôi có thuê một luật sư là Chu Văn Chiến đoàn luật sư Hải Dương. Bản thân tôi đưa bác Chiến xuống từ sáng 14 tháng 8 nhưng luật sư vào thì họ hẹn tới chiều. Chiều xuống nó bảo tuần sau, nó hẹn đi hẹn lại mãi đến mùng 5 tháng 11 nó mới cấp giấy quyền bào chữa cho luật sư. Mà không chỉ một văn phòng luật sư ấy và cả văn phòng luật sư Nguyễn Đức Quang cũng bị tình trạng như thế. Từ trên Hà Nội xuống sáu lần mà nó cứ khất mãi khất mãi đến mùng 5 tháng 11 nó mới cấp giấy quyền bào chữa. Tức là sau khi nó ép cung được các nhân chứng, các con tôi nó đánh cho tả tơi nó mới cấp giấy cho luật sư.
Sự cho phép công an quyền cấp giấy phép cho luật sư đã tăng thêm sức mạnh cho hành pháp để đối phó với tư pháp trong việc lạm dụng quyền hỏi cung. Đó cũng là tiền đề cho các bất cập trong cung cách lấy lời khai dẫn tới oan sai không thể chấm dứt.

Bằng chứng ngoại phạm bị ngăn cản

Bằng chứng ngoại phạm là yếu tố quan trọng nhất chứng minh nghi can có nhúng tay vào một vụ án hay không. Đây là điều hiển nhiên trong bất cứ tòa án nào, tuy nhiên đối với vụ án Nguyễn Văn Chưởng thì công an ra sức ngăn cản nhân chứng bằng mọi cách để buộc tội. Câu hỏi đặt ra: tại sao cơ quan điều tra lại khăng khăng không tin vào lời khai của nhân chứng và lại không sử dụng nghiệp vụ chuyên môn để xác nhận ngày giờ ngoại phạm của bị cáo thay vì cưỡng bức, hù dọa thậm chí đánh đập người cung cấp bằng chứng ngoại phạm?
Tử tù Nguyễn Văn Chưởng nói chuyện với phóng viên Người đưa tin
Tử tù Nguyễn Văn Chưởng nói chuyện với phóng viên Người đưa tin
Nạn nhân thứ nhất là anh Nguyễn Trọng Đoàn, em ruột của Nguyễn Văn Chưởng. Anh Đoàn nghe tin anh mình bị bắt và khép tội sát nhân vào tối ngày 14 tháng 7 năm 2007, trong khi đó thì Đoàn và nhiều người khác biết rõ Chưởng có mặt tại gia đình ở Bình Dân, Kim Thành, Hải Dương cách hiện trường vụ án 40 cây số. Anh Đoàn đã nhờ người làm chứng yếu tố ngoại phạm này của Chưởng và ký trong một giấy xác nhận sau đó đem tờ giấy lên công an Hải Phòng nhằm minh oan cho anh mình nhưng kết quả ngoài sự dự liệu của mọi người: anh bị bắt, bị tra tấn và kết án bao che tội phạm với hai năm tù giam. Anh Nguyễn Trọng Đoàn kể lại:
Khi mà anh trai em bị bắt sau đó đài với báo người ta đăng thì nhà em mới biết anh trai em bị bắt vì vụ giết người ở Đình Vũ, giết thiếu tá Sinh đấy. Khi người ta đưa lên đài báo người ta nói đó là tối đêm 14 tháng 7 năm 2007. Vào đúng thời điểm ấy thì anh trai em có mặt ở quê Bình Dân, Kim Thành, Hải Dương. Nhà em có đi gặp một số người mà thời điểm ấy anh trai em vào chơi để xin giấy xác nhận của người ta, người ta cũng đồng ý cho cái xác nhận và rồi em mới cầm giấy xác nhận của mẹ em và một vài người nữa mang nộp tại công an thành phố Hải Phòng.
Khi em tới nộp thì ở chỗ trực ban cho biết có người muốn gặp rồi có người xuống dẫn em lên trên phòng điều tra và em bị bắt từ hôm đấy luôn. Lên tới trên phòng thì họ hỏi anh trai em về ngày hôm ấy như thế nào, đi đến đâu làm những việc gì, bao giờ thì mới ra Hải Phòng? Lúc nào thì về đến nhà, tất cả đều phải viết ra giấy này.
Em kể tất cả tình tiết có những gì em kể ra hết cho tới thời điểm nào thì mới ra Hải Phòng…khi họ đọc xong họ mới đập bàn đập ghế, họ quát mắng em họ bảo nhà mày tạo chứng cứ giả, thằng anh mày tận ngày hôm sau nó mới về…làm gì thì em cũng khẳng định tối ngày 14 tháng 7 thì anh trai em về quê tại Hải Dương.”

Hành hung, đe dọa cả nhân chứng

Nạn nhân thứ hai là anh Trần Văn Tuất người chứng kiến Chưởng có mặt tại nhà anh vào thời điểm án mạng xảy ra kể lại với chúng tôi:
“Công an còng tay, mỗi tờ giấy cháu ghi ra cháu nhớ sự việc thằng bạn cháu (Chưởng) về nhà cháu chơi thì bị một phát đấm vào mặt. Họ còng tay cháu vào ghế và mình cứ nói câu nào đúng sự thật thì bị ăn đấm. Ăn đấm hay ăn tát vào mặt. Cháu chỉ là dân đen từ trước tới nay chưa va chạm xã hội, chỉ là người biết sự việc để kể ra để công an điều tra biết ai là hung thủ mà thôi. Thằng bạn cháu hôm ấy về nhà vợ chồng cháu chơi, vậy mà công an lấy còng số 8 đánh cháu, lấy còng nhét vào mồm và đánh cháu.
Cháu dám khẳng định là cái buổi tối hôm ấy nó vào nhà cháu chơi có mặt vợ chồng cháu và rất nhiều người có mặt hôm ấy vì rất ấn tượng vì có nhiều chi tiết để cháu nhớ, ngày hôm ấy nhà ông anh làm giỗ ở dưới Hải Phòng.”
Ông Nguyễn Trường Chinh cha của Chưởng cho biết thêm về anh Tuất:
“Thằng Tuất vào đầu tiên công an hỏi tử tế: nhìn cái mặt thằng Đoàn mà khai cho đúng vào! thằng Tuất khai thì công an đánh luôn. Công an xích hai tay thằng Tuất vào ghế mỗi lần thằng Tuất mà nói thằng Chưởng về 21 giờ tối 14 tháng 7 thì ba công an đấm vào đầu. Tuất bị đánh bị đe dọa nếu mày không viết thằng Chưởng nó về sáng 15 tháng 7 mày viết cho đúng vào nếu không viết tao bắt cả nhà mày. Thằng Tuất buộc phải khai nhớ nhầm ngày để được thả cho về.”
Bị phủ đầu như thế và sau đó chính mình cũng bị công an tra tấn nên anh Tuất viết lại lời khai theo hướng dẫn của công an. Anh Tuất kể điều tra viên bức cung anh như thế nào:
“Hôm ấy tầm 5 giờ rưỡi 6 giờ tối họ vẫn ép cháu rằng mày phải nói là mày sai với những gì mà mày đã viết thì sẽ được về không thì tao cứ nhốt mày đấy, vì vậy bắt buộc cháu phải khai mình nhớ nhầm để mà về chứ không biết như thế nào, nó cứ ép mình khai là nhớ nhầm để mà về. Thực ra cái bản khai ấy có một anh ảnh ngồi kế bên ảnh nhìn. Cháu mới nói cái này thực sự do các anh ép em viết chứ thật ra là thằng bạn em nó có về vào buổi tối hôm ấy. Cháu nói thẳng với anh ngồi cùng ở đấy.”
Đối với Nguyễn Trọng Đoàn điều tra viên cũng làm như vậy với mục đích sửa lại lời khai ban đầu của nhân chứng, anh kể:
“Tầm chiều thì lại có một điều tra viên khác vào hỏi em, ông ấy rất là tình cảm lôi cuốn em. Khi ấy tâm trạng của em thật sự là chả nghĩ được gì cả. Ông ấy bảo thôi cháu à, cháu cứ khai là anh cháu sáng ngày 15 anh cháu mới về chứ cháu chịu khổ như thế làm gì. Chú sẽ thả cho cháu về cháu bảo với gia đình nhà cháu và các nhân chứng. Em tin vào lời nói của công an. Tưởng người ta nói thật em viết bản cung của em theo lời của điều tra viên họ đọc thế nào thì em viết như vậy. Thế nhưng ngờ đâu em viết theo như thế thì hôm sau họ lại chuyển em về tạm giữ tại công an quận Lê Chân. Em bị tạm giữ ở đấy 7 ngày thì họ chuyển em vào trong Trần Phú.”

Yếu tố quan trọng bị bỏ qua

Có lẽ quan trọng nhất là trong lời khai của bà Nguyễn Thị Bích, mẹ anh Chưởng về chi tiết bữa cơm của gia đình cậu anh Chưởng vào sáng hôm sau 15 tháng 7 đáng lẽ phải được công an khai thác nhưng lại bị bỏ qua. Trong đám tiệc mừng vào sáng Chúa Nhật hôm đó có mặt anh Chưởng và tối hôm ấy anh mới về lại Hải Phòng. Bà Bích nói:
“Hai thằng nó chơi ở nhà Tuất còn bổ dưa cho nó ăn. Ăn xong nó lại ra bãi thiếu niên tập hè ở trước cửa nhà Tuất nó chơi. Trên đường về nó gặp cô Mến là bạn Đoàn thì Mến mời nó vào nhà Mến chơi, hôm đó nhà Mến cũng đông người lắm. Sau đó trời mưa nó phải nán lại đến 11 giờ đêm mới về.
Sáng hôm sau đi ăn cơm nhà cậu nó có đứa con thi cấp III nó đỗ điểm cao cậu nó làm mấy mâm cơm mời tất cả mọi người đến ăn ở đó vào sáng hôm Chủ Nhật 15 tháng 7 năm 2007. Tối hôm đó nó mới ra Hải Phòng.”
Không chỉ trong phòng kín của cơ quan điều tra cấm không cho bị cáo nói lời thật mà giữa tòa án cũng cùng một cung cách ấy đối với luật sư bào chữa. Luật sư Hoàng Việt kể lại phiên tòa phúc thẩm:
“Tòa không cho nói kể cả hôm đó có anh Tuất là người mà đã viết đơn khiếu nại đã tiếp Chưởng, đã bổ dưa cho Chưởng ăn hôm ấy anh cũng có mặt tại tòa phúc thẩm nhưng tòa không cho hỏi, tòa nói đã đầy đủ trong hồ sơ rồi nên không cho nói. Diễn biến tại phiên tòa còn không cho luật sư nói! Hôm ấy tòa diễn ra đến tận 7 giờ rưỡi tối vẫn bật điện lên để xử.
Nói chung nhiều tình tiết nó cũng rất là bất cập. Chúng tôi là những người được pháp luật cho phép bảo vệ quyền lợi cho bị can bị cáo nhưng vẫn không được nói tiếng nói của mình. Tòa cứ kêu là không cần nói dài. Không! chúng tôi phải trình bày quan điểm của chúng tôi tới khi đủ mới thôi chứ sao không cần? Cứ bảo đã thể hiện trong hồ sơ. Không! hồ sơ chúng tôi còn đang nghi vấn đề nghị làm rõ, tại sao lại căn cứ vào hồ sơ? Căn cứ vào hồ sơ thì mở phiên tòa công khai để làm gì? Tóm lại nó có những tình tiết như thế.”
Bỏ qua các yếu tố ngoại phạm dẫn đến bản án tử hình Nguyễn Văn Chưởng đã khiến dư luận đòi hỏi phải mở lại vụ án. Bên cạnh đó không thể không chú ý tới hành vi tra tấn của công an dẫn tới những tờ giấy nhận tội của Chưởng, Tuất, Đoàn và các nghi can khác trong vụ án.

Tra tấn để tìm sự thật?

Sáng 28 tháng 11 năm 2014, Quốc hội Việt Nam đã biểu quyết thông qua Nghị quyết phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người. Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tra tấn Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 10-12-1984, có hiệu lực thi hành vào ngày 26-6-1987. Trước đó, Việt Nam đã ký nhưng chưa phê chuẩn Công ước.
Trong bất cứ một thể chế dân chủ nào tra tấn là một hành vi bị pháp luật cấm đoán nghiêm nhặt. Tra tấn xâm phạm nhân quyền vì gây đau đớn cho người khác nhưng đồng thời nó cũng vi phạm thô bạo pháp luật trong việc định và kết tội một người vô tội.
Trong vụ án của từ tù Nguyễn Văn Chưởng vấn đề tra tấn đã được các bị cáo công khai tố cáo trước mọi người và những lời tố cáo ấy là bằng chứng cho thấy công an bức cung nhằm thỏa mãn một chỉ tiêu nào đó hơn là cố tìm công lý cho nạn nhân bị hại.
Đối với hai bị cáo Nguyễn Văn Chưởng và Đỗ Văn Hoàng thì sự tra tấn đã dẫn tới việc cả hai viết giấy thú nhận những gì mà trước tòa Phúc thẩm họ đều phản cung và nói rằng bị tra tấn mà nhận tội. Ông Nguyễn Trường Chinh, cha của Nguyễn Văn Chưởng kể lại phiên tòa:
“Thằng Hoàng cũng trong vụ án của thằng Chưởng nó cũng tố cáo trước tòa làm cả hội trường hôm ấy ồ lên sao mà ác sao mà dã man đến thế. Thằng Hoàng tố cáo thế này: cũng tra tấn kiểu thằng Chưởng. Nó bảo hai công an dùng bút bi kẹp vào giữa các ngón tay của hai bàn tay của nó, hai công an bóp thật mạnh cùng lúc dái của nó cũng bị bóp không chịu được thì nhận bừa.
Còn thằng Chưởng nó khai trước tòa Phúc thẩm là cũng bị tra tấn kiểu của Hoàng và bị còng số 8 treo ngược lên sau lưng, treo ngược lên cái mũi của ngón chân cái cách sàn nhà không quệt được xuống đất. Treo thế mấy tiếng đồng hồ và toàn đánh vào bộ phận sinh dục của nó. Nó đái ra sàn, hộc máu ra và kêu la thì công an nó lấy chất bẩn của phạm nhân trước nó nhét vào mồm Chưởng. Các anh nghĩ con tôi cũng là một con người sao nó tàn bạo tàn khốc nó tra tấn con tôi dã man mức độ đấy?”
Đối với nhân chứng công an cũng dùng biện pháp tra tấn và anh Trần Văn Tuất một nhân chứng trở thành nạn nhân cho biết:
“Họ còng tay cháu vào ghế và mình cứ nói câu nào đúng sự thật thì bị ăn đấm. Ăn đấm hay ăn tát vào mặt. Tất cả những gì diễn ra cháu khai hết tất cả những gì cháu đã biết cháu khẳng định nếu cháu nói sai sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật nhưng tòa không có một ý kiến gì. Những điều công an đánh đập cháu, còng số 8 cháu, còng cháu vào ghế…”

Khi sự thật được lên tiếng

Nguyễn Trọng Đoàn cũng là nạn nhân của tra tấn trong khi anh không phải là người gây án hay bị tình nghi gây án. Công an tra tấn anh chỉ với mục đích ngăn không cho Đoàn chứng minh sự vô tội của anh trai mình với các bằng chứng ngoại phạm thuyết phục, anh kể việc tra tấn và áp lực ngày đêm như sau:
“Bắt đầu họ thấy dọa nạt không được họ quay sang đánh đập. Lấy tay đấm vào đầu, tát vào mặt em, quặt tay em ra đàng sau. Lúc họ đánh thì họ đóng hết cửa phòng lại để ở ngoài người ta không biết. Họ lấy cả bút bi kẹp vào tay của em xong rồi họ bóp!
Không thể hình dung công an lại đánh người dã man như thế. Họ chỉ vào vết máu trên cửa họ nói máu của anh mày. Anh mày nó to béo như thế mà nó còn không chịu được thì mày có chịu được không? Họ đánh em nhiều lắm, ức quá em lấy đầu đập vào cái bàn gần như bị ngất đi lúc ấy họ mới thôi họ không đánh nữa.”
Theo lời kể của Đoàn anh bị giam chung với thành phần bất hảo, nghiện ngập và bị đánh đập hàng ngày một cách tùy tiện và vô lý. Anh bị áp lực nặng đến nỗi phải viết lại lời khai bất lợi cho anh ruột của mình để được ra khỏi nhà giam nơi anh cho là địa ngục trần gian của Hải Phòng.
Các nhân chứng khác như Lục Thị Nhiễu, Vũ Thị Mến, Bùi Văn Trung, Phạm Văn Khương tuy không bị tra tấn nhưng trước những hù dọa của công an và hành vi giữ họ trong suốt nhiều tiếng đồng hồ đã làm tất cả sợ hãi và thay đổi khẩu cung gây bất lợi cho bị cáo.
Nói với chúng tôi bà Nguyễn Thị Bích mẹ của Nguyễn Văn Chưởng kể lại phiên tòa phúc thẩm về nhân chứng:
“Họ chỉ cho mỗi mình Tuất thôi tại vì các nhân chứng kia họ bị đánh bị đập nên họ nói là có về nhưng không nhớ ngày. Có Trường và Chưởng đến nhà chơi nhưng mà không nhớ ngày. Công an đã lấy thằng Đoàn để đe dọa rồi nó bắt và đánh như thế rồi để dọa những người nhân chứng này cho họ sợ chỉ có mỗi thằng Tuất nó đứng ra nó nói trước tòa chính xác là Chưởng về hôm ấy. Đi đến đâu thì nó cũng nói tối hôm ấy Chưởng và Trường có ở nhà nó.
Những người nhân chứng kia kể cả Trường nữa thì tòa không cho ra để đối chất hỏi han gì cả. Bùi Văn Trung, Vũ Văn Cương và Vũ Văn Khương nữa họ không cho gọi ra. Các luật sư đề nghị nhưng họ không cho ra. Họ bảo hồ sơ đầy đủ rồi họ không cần các nhân chứng đó.

Tra tấn để bảo vệ thủ trưởng?

Trong vụ án từ tù Nguyễn Văn Chưởng không thể bỏ qua yếu tố của Thiếu tướng công an Đỗ Hữu Ka khi trả lời báo chí về vụ án. Ông Ka đã khẳng định là chính ông góp phần tìm ra thủ phạm trong thời gian khi ấy là Phó Giám đốc, Thủ trưởng cơ quan CSĐT Công an TP.Hải Phòng và rất tự hào về hành động này.
Niềm tự hào của Thiếu tướng công an Đỗ Hữu Ka sẽ gây áp lực lên cơ quan điều tra công an Hải Phòng là điều không thể tránh khỏi. Nhân viên điều tra sẽ bị khiển trách khi kết quả khác với lời lẽ của thủ trưởng Đỗ Hữu Ka và có lẽ đây là lý do khiến việc tra tấn nghi can để buộc anh ta không thể nói khác lời của một thủ trưởng công an rất nổi tiếng trong vụ Tiên Lãng xảy ra sau đó.
Hành động cản trở công lý của người thực thi luật pháp đã lập đi lập lại trong rất nhiều vụ án và người dân vẫn không hiểu ai là người sẽ bênh vực, minh oan cho họ khi chính bản thân họ trở thành một Nguyễn Văn Chưởng hay Hồ Duy Hải thứ hai.