Trần Dân Tiên Ông
Trăm năm bia đá thì mòn
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ
Hồ Chí Minh biết rõ chân lý này nên đã tính trước, mạo danh Trần Dân Tiên để viết cuốnNhững mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch tự ca ngợi mình. Nhưng sự thật là sự thật, ngày nay ai cũng biết tỏng Trần Dân Tiên chính là Hồ Chí Minh.
Trong khi đó chế độ cộng sản không ngại đục khóet xương máu nhân dân để xây “bia đá” cho ông ta. Thí dụ như tỉnh Sơn La: hiện tại cả tỉnh Sơn La thu thuế mỗi năm chỉ được khoảng 1.500 tỷ đồng, nghĩa chính quyền tình vẽ ra dự án xây tượng đài hết 1,400 tỷ đồng. Khỏi nói dư luận Việt Nam sôi lên về chuyện này.
Xây tượng là một cách dựng “bia đá”. Để đáp lại, chúng ta cần tô đắp cái “bia miệng” về Hồ Chí Minh.
Trên thực tế thì bia miệng này đã dày, chúng ta cần cập nhật thêm số thông tin mới hay thông tin đã cũ nhưng ít người để ý.

Thô lỗ cộc cằn, vô văn hóa
Gần đây ngày 13.7.2015 tác giả Vũ Đình Phòng đăng bài hồi tưởng “Kỷ niệm về Lưu Trọng Lư” trên trang viet-studies trong có những mẩu chuyện khá thú vụ về Hồ Chí Minh, qua cái nhìn của Lưu Trọng Lư, một bậc đàn anh khá thân với tác giả.
Vũ Đình Phòng là đạo diễn kịch, đi lính Việt Minh từ năm 1949, sau học kịch nghệ tại Liên Xô, trở về Vụ Sấn Khấu làm việc dưới quyền Lưu Trọng Lư, có thời làm Tổng biên tập tạp chí Sân Khấu.
Qua câu chuyện của tác giả, Hồ Chí Minh trông chẳng khác gì một “địa chủ bóc lọt”, luôn khó chịu khi thấy người ăn kẻ ở rảnh rang, không làm việc. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh hành xử không khác những “đội viên cờ đỏ” sau 1975, lăm lăm cây kéo trên tay để rạch quần loe hay xeo tóc dài.

Tác giả viết:
“Trong chuyến đi này tôi hiểu thêm về anh (Lưu Trọng Lư) rất nhiều. Càng hiểu càng thấy hai anh em có rất nhiều “cách suy nghĩ” giống nhau. Anh tỏ ra rất tin tôi, tâm sự với tôi nhiều câu chuyện, nhiều điều mà tôi tin anh không kể với ai, có lẽ cả chị, hoặc nếu kể cũng không chi tiết như kể với tôi (tôi chủ quan chăng?)
Trong số “tâm sự” ấy có một tâm sự anh thổ lộ với tôi mà hôm nay tôi rất ngập ngừng khi có ý định thuật lại. Nay anh đã không còn trên cõi đời và tôi nghĩ chuyện không phải “bí mật” gì ghê gớm lắm.
Hôm dạo chơi trên bãi cát Vân Đồn, bỗng nhiên anh kể ấn tượng về lần đầu tiên “gặp Bác”, ấn tượng rất xấu mà từ đấy về sau, cho đến lúc bấy giờ, anh phải cố gắng hết sức để xóa đi trong trí óc. Câu chuyện anh kể có thể tóm tắt như sau.
Sau Hiệp nghị Genève, anh Lư được chuyển ra Hà Nội. Suốt thời gian Kháng chiến, từ Cách mạng Tháng Tám đến lúc ấy, anh chỉ ở Khu Bốn (miền Trung), chưa được nhìn thấy Bác bao giờ, cho nên ra Hà Nội, anh vẫn ao ước được “nhìn thấy” Bác bằng xương bằng thịt. Năm sau anh được phân về tham gia ban lãnh đạo Vụ Nghệ thuật, và được phân công đặc trách “khối Văn công”. Cuối năm ấy (1956), đột nhiên Vụ nhận được điện thoại từ Phủ Chủ tịch yêu cầu một điều, đại khái: “Mấy hôm nay Bác có vẻ buồn. Yêu cầu Vụ Nghệ thuật cử vài diễn viên ca múa và ngâm thơ lên tiêu khiển cho Bác.” Lệnh còn nói rõ: “Nhất thiết phải có nghệ sĩ ngâm thơ bằng giọng miền Trung.” Nhận được lệnh, anh Lư bàng hoàng, vậy là nhất định phen này sẽ được gặp Bác, thỏa nỗi ao ước bấy lâu, vì chắc chắn anh sẽ phải đích thân dẫn tốp văn công ấy lên Phủ Chủ tịch và có mặt trong lúc các diễn viên biểu diễn. Anh hồi hộp chờ cho mau đến giờ đi.
Lên đến Ba Đình, trong lúc các diễn viên vào một phòng nhỏ trang điểm và thay quần áo, anh thơ thẩn ngoài hành lang tòa nhà, bước chân lững thững và hồi hộp chờ… Đột nhiên anh thấy có bóng người từ cuối hành lang đi đến. Hành lang hơi tối nên lúc đầu anh không nhìn thấy mặt, nhưng anh đoán chính là “Bác”. Dáng người mảnh khảnh và bước chân nhanh nhẹn. Anh thấy tim mình đập mạnh. Anh đứng lại, chờ Bác đến để chào và tỏ lòng tôn kính. Nhưng bất ngờ thay, Cụ bước nhanh đến, cau mặt, gắt luôn: “Không có việc gì để làm à? Mà đứng thơ thẩn, lại hút thuốc thế này? Đi tìm xem có việc gì mà làm đi chứ”. Và trong lúc ông anh của tôi còn đang đứng ngẩn người, chưa biết đối đáp ra sao thì “Cụ” đã thoăn thoắt đi khuất vào hành lang phía đối diện và biến mất…”
Đột nhiên anh cảm thấy không ngờ “ông Cụ” thô lỗ, cục cằn thế!” Bao nhiêu điều trước đây anh tưởng tượng ra, về một con người lịch lãm, biến mất sạch. Thay vào đấy là một cảm giác thất vọng tràn trề… ”
Kể xong câu chuyện này anh kết luận. “Đấy là một ấn tựơng rất xấu về Bác mà suốt thời gian qua và có lẽ còn lâu sau này nữa, mình phải cố xóa nó đi trong ký ức. Cho đến hôm nay chưa phải đã xóa được hết!”
Về cách thức xử sự này của ông Hồ, về sau tôi đã được ông Hà Huy Giáp kể, sau khi ông nghe tôi đọc bản phác thảo ban đầu kịch bản “Kể chuyện Bác Hồ” (kịch bản sau đấy được viết lại rồi “bị” cưỡng bức nhận thêm tác giả thứ hai… Chính ông này đổi tên kịch bản thành “Người Công dân số Một”
Ông Hà Huy Giáp kể rằng sau Đại Hội Hai, Đảng ra công khai, đổi tên thành Đảng Lao Động, Sau Đại hội, “Cụ” giữ ông Hà Huy Giáp ở lại (đoàn đại biểu Nam Bộ ra họp hình như chỉ có ba người) giúp Cụ. Ông Hà Huy Giáp ở bên Bác vài tháng. Và ông kể đại khái: “Bác rất nghiêm, nghiêm đến mức khó tính. Nghe thấy tiếng cười bên ngoài là Bác đang gõ máy chữ, cũng chạy ra mắng: “Không có việc gì à? Mà nhăn răng cười cợt thế kia? Tìm việc gì mà làm chứ. Có đống củi kia, ra mà bổ đi…” Cụ khó tính đến nỗi không ai dám bén mảng đến gần phòng của Bác. Chỉ khi Bác cho ai đi gọi thì mới dám đến…
Rồi ông Đỗ Đức Dục (Thứ trưởng Bộ Văn hóa, đảng viên Đảng Dân chủ, sau bị Lê Duẩn cách chức, cho về Viện Văn học). Hôm ấy, nhìn thấy tôi đi ngoài hành lang cơ quan Viện, ông gọi vào để trò chuyện. Nhân nói đến ông Hồ, ông Dục kể: “Một con người vô văn hóa. Đầu năm 1946, hôm Chính phủ Liên Hiệp ra mắt ở Nhà hát Lớn, ông ta nhìn thấy Cụ Tố (Nguyễn Văn Tố) mặc âu phục, ông thô lỗ chạy đến, kéo chiếc cà-vạt Cụ Tố đang đeo ra, gắt: “Sao ông ăn mặc thế này?” (Lúc ấy ông Đỗ Đức Dục là Thứ trưởng Giáo dục)…
Quả cà tiết kiệm nhưng lãng phí
Hồ Chí Minh còn là sản phẩm của một trò ca ngợi ngu xuẩn và lãng nhách. Chỉ muốn ăn thêm hai quả cà mà phải tuyển dụng thêm một nhân viên, nghĩa là phải tốn thêm lương và bao nhiêu “chế độ- tiêu chuẩn – tem phiếu:

Trong cuốn Đèn Cù, chương 16, Trần Đĩnh thuật:
“Khoảng cuối những năm 90, một hôm đến Sơn Tùng, tôi nghe anh nói Vũ Kỳ vừa đến, lát nữa khám bệnh định kỳ xong sẽ lại ghé anh - hai anh tương ứng tương thông ở trong hào quang Bác Hồ - tôi đã nhờ Sơn Tùng sang tai cho Vũ Kỳ: Là trong Hồi ký Vũ Kỳ đăng ở Nhân Dân hôm kia, có chỗ viết Bác Hồ ăn cơm thường bảo Vũ Kỳ xuống xin chú Cẩn cho Bác thêm hai quả cà thì Trần Đĩnh nói Vũ Kỳ đề cao gương tiết kiệm như thế là có hại. Ai đời chỉ vì có hai quả cà ăn thêm mà phải huy động một dây chuyền nhân viên tất cả lương chắc phải rất to. Thì cứ để sẵn hẳn mỗi bữa cho mươi quả, Bác ăn không hết, chú Cẩn ở dưới bếp ăn càng có phước chứ sao? Mà có khi còn kiệm được mấy miếng thịt nữa.
Tôi thật lòng muốn chống lối bày biện rườm rà tốn kém và lãng nhách ra để nêu gương Bác Hồ và kêu gọi học tập tiết kiệm, chống lãng phí. Bảo lấy thêm cà, lãnh tụ đâu ngờ cái chuyện vặt ấy rồi thành một mẫu sống nguy nga! Trong khi lãng phí bao mạng người như bố vợ tôi.
Xuống thang về, tôi toan quay lại nói thêm: Ở trên rừng những năm 1949, Lang Bách thường kỳ chế rượu thuốc cho Bác uống. Một lần chúng tôi hỏi anh: “Bao nhiêu tiền bốn chai này?” Anh nói: “Bằng sinh hoạt phí mấy thằng chúng ta ngồi đây. Thuốc bắc quý thì đắt mà lại phải mua trong Hà Nội. Có khi người mang ra bị Tây phục kích chết ở Đường số 5 nữa ấy chứ!”
Áo cũ đắt hơn áo mới
Ngòai chuyện “nhân viên phục trách phát cà pháo” cho chủ tịch nước, Vũ Kỳ còn sáng tác chuyện bác chỉ mặc áo cũ nhưng đắc gấp mấy áo mới:
Trong bài báo “Người may áo cho Bác Hồ” đăng trên báo Lao Động ngày 12/05/2005, ký giả Trà My cho biết thấy “bác” mặc áo cũ quá, thư ký riêng Vũ Kỳ mới lén đặt thợ may may áo mới nhưng phải làm cho cũ lại, sợ đưa áo mới thì “bác” không chịu mặc.
Tác giả kể: “Ông Phạm Huy Tăng, nguyên giám đốc Xí nghiệp May 10, năm nay gần tuổi 80. 46 năm qua, nhưng kỷ niệm về lần được may áo cho Bác Hồ trong ông không bao giờ quên. Tấm Huy hiệu Bác Hồ ông được tặng khi may xong bộ quần áo cho Bác, là kỷ vật quý giá mà ông suốt đời nâng niu gìn giữ. Chính đức tính khiêm tốn, giản dị của Bác khiến mỗi khi nhắc đến Bác, ông đều xúc động và học tập nhiều ở đức tính ấy.
Ngày 8-1-1959, Xưởng May 10, lúc đó thuộc Cục Quân nhu, Tổng cục Hậu cần vinh dự được đón Bác Hồ về thăm, khi ấy ông Phạm Huy Tăng là công nhân của tổ kỹ thuật. Ông Tăng nhớ lại: “Năm đó, Bác đã 69 tuổi nhưng đi lại vẫn nhanh nhẹn. Bác đi thăm các phân xưởng sản xuất rồi đến thăm cả nhà ăn tập thể, nhà trẻ. Mọi người mừng vui khi Bác đến thăm, ai cũng muốn được đứng gần Bác để nhìn Bác cho thật rõ. Chúng tôi rất xúc động khi thấy chiếc áo ka-ki đã bạc mầu, sờn tay mà Người vẫn mặc từ những ngày đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Mọi người có mặt trong buổi đón Bác về thăm đều mong muốn được may biếu Bác bộ quần áo. Sau khi một cán bộ của Xưởng May 10 đem mong muốn đó trao đổi với đồng chí Vũ Kỳ, thư ký riêng của Bác, đồng chí Vũ Kỳ nói: "Bác sắp đi thăm Indonesia, nhưng quần áo của Bác đã cũ hết cả rồi. Các cậu có thể may biếu Bác một bộ. Ngày mai tôi sẽ đưa bộ quần áo mẫu của Bác xuống làm mẫu nhưng với điều kiện là giữ bí mật. Đường kim mũi chỉ quần áo cũ của Bác thế nào, dù cong hay thẳng thì các cậu cứ may y như thế. Và phải làm sao cho vải cũ như màu quần áo của Bác. Nếu phát hiện thấy áo khác đi, áo mới may là "ông cụ" không dùng đâu".
Ngay ngày hôm sau, nhận được bộ quần áo của Bác làm mẫu, nhóm thợ của tổ kỹ thuật gồm Trần Văn Quảng, Nguyễn Công Thái và Phạm Huy Tăng được giao nhiệm vụ trực tiếp may hoàn thiện bộ quần áo này. Công việc chọn loại vải được bắt tay thực hiện, đó là vải ka-ki, dạng vải nóng chéo mầu hơi ngả vàng được chọn từ trong kho của xí nghiệp dệt 8-3. Các thợ của Xưởng May 10 phải tìm lựa chọn từ rất nhiều tấm vải khác nhau mới tìm thấy một tấm vải ưng ý nhất, có mầu sắc tương tự màu bộ quần áo của Bác Hồ.
Ông Tăng cho biết, để làm vải cũ đi các công nhân kỹ thuật may phải ngâm vải trong chiếc chậu tôn to, giặt vải bằng xà phòng, giặt xong lại là, là xong lại giặt, cứ thế khoảng vài chục lần đến khi hai mẫu vải giống nhau. Những người thợ trải vải mới chồng lên bộ quần áo cũ, đo rồi vạch ra giấy từng phần một, từ thân trước, tay, cổ, thân sau, sau đó dùng dao cắt vải bằng tay. Thế mà từng phần của bộ quần áo sau khi khớp vào giống y hệt bộ quần áo cũ của Bác Hồ từ đường mũi chỉ. May xong, ông Tăng cùng anh em công nhân chọn từ trong kho 205 để lấy hai bộ cúc giống bộ cúc quần áo cũ của Bác. Hai bộ quần áo tặng Bác Hồ được ông Tăng và anh em trong tổ kỹ thuật may xong chỉ trong hai tuần, sau đó được gửi ngay lên biếu Bác.”
Giản dị và tiết kiệm theo kiểu này thì chỉ gây tác dụng ngược, càng giản dị sẽ càng phức tạp, càng tiết kiệm sẽ càng tốn kém hơn.
May một bộ quần áo mới cũng chẳng tốn bao nhiêu công của, nhưng may cho được cái áo “mới như cũ” thì tốn công của gấp bội: may rồi giặt, giặt rồi là, lập đi lập lại; thế nhưng áo vẫn không được mang ra sử dụng theo đúng công năng mà trở thành cái áo... để bàn thờ. Theo lời tác giả thì đức tính giản dị của Hồ Chí Minh còn đi xa hơn: “người” vẫn nhận ra áo mới nên nhất định không chịu mặc, sợ phí, và biến cái áo thành một thứ linh vật.
Tác giả viết: “Trong cuốn sổ truyền thống của Công ty May 10 hiện còn ghi lại những kỷ niệm thân thương về chiếc áo tặng Bác Hồ, về tình cảm của May 10 với Bác Hồ và Bác Hồ với May 10. Đồng chí Cù Văn Chước, người phục vụ Bác lúc đó, sau này là Viện trưởng Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh, chỉ lấy một bộ để lên chiếc bàn nhỏ kê ở góc nhà sàn đặt những sản phẩm của đồng bào biếu Bác. Hôm ấy, sau khi ăn cơm trưa về, đồng chí Chước thưa với Bác: "Anh em công nhân May 10 tiết kiệm được vải, may biếu Bác bộ quần áo, với tất cả tấm lòng thành. Mong Bác vui lòng nhận cho". Bác cầm lên xem và khen may đẹp. Ngày 24-2-1959, Bác đánh máy bức thư gửi công nhân, chiến sĩ, nhân viên và cán bộ Xưởng May 10, Cục Quân nhu, Tổng cục Hậu cần, Bác viết: "Cảm ơn các cô, các chú đã biếu Bác bộ quần áo. Bác nhận rồi, Bác gửi bộ áo ấy làm giải thưởng cho đợt thi đua. Khi nào đợt thi kết thúc, do các cô, các chú bình nghị, ai khá nhất được giải thưởng ấy".
Nghe mà muốn ói!
Ngày sinh và năm sinh
Hàng năm, đến ngày 19.5 là chế độ cộng sản trọng thể kỷ niệm sinh nhật giả của Hồ Chí Minh (19.5.1890), trên thực tế không chỉ ngày sinh mà năm sinh đều giả.
Trên thực tế không ai biết Hồ Chí Minh sinh ngày nào. Đặc điểm chung của những lãnh tụ cộng sản là lý lịch mịt mờ: ai cũng lắm tên, ai cũng sử dụng bí danh, đủ loại tên, đủ loại giấy tờ và Hồ Chí Minh cũng vậy.
Thí dụ trong lá đơn đề ngày 15.9.1911 gởi cho bộ trưởng thuộc địa Pháp để xin theo học trường thuộc địa, Hồ Chí Minh – dưới cái tên Nguyễn Tất Thành – đã khai mình “sinh năm 1892 tại thành phố Vinh, con quan phó bảng Nguyễn Sinh Huy”. Khi khai ở sở cảnh sát Paris, ngày 2-9-1920, dưới tên Nguyễn Ái Quốc, ông lại ghi: "Sinh ngày 15-1-1894". Ba năm sau tại tòa đại sứ Liên Sô, ở Berlin (tháng 6 -1923) ông đổi thành Cheng Vang và nhân tiện đổi luôn cả ngày sinh tháng đẻ của mình, là ngày 15/2/1895. Nghĩa là trong vòng 25 năm, bản thân ông có tới ba ngày sinh: 15/1,15/2 và 19/5.
Còn năm sinh thì rôm rả hơn. Trước tiên theo các nguồn tin dặc biệt tin cậy là hương chức ở quê ông thuộc làng Kim Liên xã Nam Liên huyện Nam đàn tỉnh nghệ An, thì ông sinh tháng 4-1894. Sổ sách ghi rõ: Tháng 3 năm Thành Thái thứ 6 ( âm lịch). Trong khi anh ruột ông là Nguyễn Sinh Khiêm lại khai ông sinh năm 1891. Chị ông, Nguyễn Thị Thanh - khai ông sinh năm 1893. Bản thân ông tự khai trong khi hoạt động Kách Mệnh thì lúc sinh 1890, lúc lại 1982, khi là 1895 v.v... Nghĩa là đến trời cũng lắc, có đích thân lên tận ban nghiên cứu lịch sử Đảng, tận trung ương, gặp những nhân vật chuyên viết về lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, hẳn họ cũng..ngắc ngứ, cho dù cầu hồn để gọi mẹ đẻ ông là bà Hoàng Thị Loan lên mà hỏi cho rõ ràng chắc bà cũng tắc.
Hồ Chí Minh “sinh ngày” 19-5 chẳng qua vì đó là ngày mà viên Cao ủy Pháp ở Đông Dương, D''Argenlieu đến Hà Nội. Vì ở thế hạ phong Hồ CHí Minh phải cờ xí đón tiếp nhưng để giữ thể diện thì ngầm là ngành sinh nhật của mình.
Ngày sinh đã giả nhưng năm cũng giả luôn. TRần Đĩnh là một thành viên trong nhóm viết tiểu sử Hồ Chí Minh và trong cuốn Đèn Cù, chương 14 ông kể:
“Đầu 1960, Hoàng Tùng đưa tôi về phụ trách Ban sinh hoạt đảng cùng Trần Các. Anh muốn tôi coi mảng tuyên truyền mấy sự kiện chính trị trọng đại của năm này.
Mừng Đảng 30 tuổi, mừng Cụ Hồ 70, mừng 15 năm thành lập nướcViệt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Ngoài ba đại khánh còn Đại hội lần thứ ba của Đảng.
Tháng 3, Tố Hữu triệu tập mấy người lập nhóm viết tiểu sử Hồ Chí Minh với danh nghĩa Ban nghiên cứu lịch sử đảng. Gồm Tố Hữu, Phạm Bình (Ban nghiên cứu lịch sử đảng), Nguyễn Huy Tưởng, Hoài Thanh và tôi. Hai nhà văn vào tận quê Cụ sưu tầm tài liệu. Phạm Bình cung cấp tài liệu. Tôi viết. Cố nhiên cũng sưu tầm cả tài liệu. Hai nhà văn trở ra với nhiều điều giật gân. Cụ sinh năm 1891!
Cụ Khiêm, anh trai Cụ nói thế, có bằng chứng hẳn hoi trong gia đình và họ hàng. Báo cáo với Cụ thì Cụ nói của người ta thế nào thì cứ để thế không sửa gì hết. Hai nhà văn và tôi bảo nhau: Bác muốn dân dễ nhớ nên lấy tròn 1890. Vả chăng năm nay đất nước mở đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, tam hỉ đồng niên mới quan trọng, nếu chỉ còn nhị hỉ thì không quý bằng.”
No comments:
Post a Comment